Sunday, November 5, 2017

Cao Thế Dung, thầy tôi - Trường Sơn Lê Xuân Nhị

 
Đừng nghĩ thằng Mỹ nó yêu thương đất nước mình.  Chúng nó đến đây vì quyền lợi của chúng nó.  Một ngày nào đó, chúng nó sẽ ra đi.  Các em nên nhớ, không có ai yêu thương đất nước mình bằng người Việt Nam mình cả.  Nếu các em không yêu thương đất nước mình thì các em mong đợi ai sẽ yêu thương đất nước mình đây?

Lời thầy Cao Thế Dung dạy học sinh La San Ban Mê Thuột
 
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
 
Tôi may mắn biết thầy Dung từ trước khi thầy trở thành nhà văn nổi tiếng ở Việt Nam.  Khoảng năm 1965 hay 66 gì đó, trường Lasan Ban Mê Thuột chúng tôi có một giáo sư Việt Văn mới tên Cao Thế Dung.  Thường thường thì các giáo sư mới hay bắt đầu vào dịp đầu năm, nhưng thầy Dung xuất hiện thật bất ngờ.  Chẳng ai báo trước, chẳng được nghe tin. Chỉ thấy một buổi sáng, thầy mặc áo sơ mi trắng, thắt cà vạt, xách Samsonite bước vào lớp chúng tôi.  Lúc ấy chúng tôi mới biết đó là giáo sư Việt văn mới của lớp mình.  Nghe nói, thầy là dân Sài-gòn về đây.
Dân Sài-gòn quả có khác…
Thầy người Bắc, đẹp trai, tướng người mảnh khảnh, ăn mặt sang trọng, luôn luôn đeo cà vạt và sách cặp táp đi dạy học, hoàn toàn khác với các thầy địa phương ở Ban Mê Thuột lúc đó.
Tưởng cũng cần nhắc thêm ở đây, và nếu ai còn nhớ những tháng ngày ở trường trung học, chương trình gồm có nhiều môn học với nhiều hệ số.  Hai môn quan trọng, thứ nhất là Toán, thứ nhì Lý Hóa đều lạ hệ số 4, và thứ ba Vạn Vật, hệ số 3.  Sau đó mới tới những môn khác như Việt Văn, Pháp văn, Sử Địa, hệ số 2, và mấy môn lẩm cẩm khác hệ số 1 là Công Dân Giáo Dục (Chúng tôi gọi là Công Rân Ráo Rục), môn thể thao, và Giáo Lý cho những người học trường thầy dòng như chúng tôi.  Chúng tôi gọi những giờ hệ số 1 này là giờ... giải trí.  Giải trí cần thiết cho thần kinh bớt căng thẳng sau những giờ Toán Lý Hóa nhức đầu.
Đặc biệt, môn Công Rân Ráo Rục là một môn dễ dạy nhất.  Cứ lên bảng, mặt mày cần phải nghiêm trang một chút, không được cười, nói tía lia, nói thiên nói địa gì thì cũng thành... Công Rân Ráo Rục... ráo.  Môn này hồi đó, với cái tài bốc hốt của tôi, nếu cho tôi lên dạy, tôi bảo đãm sẽ hay vô cùng.
Vì thế, có thể nói, những giáo sư dạy môn Toán, Lý Hóa, Vạn vật là những người mà chúng tôi sợ nhất và kính nể nhất.  Ăn một con zero của mấy ông này thì đời tàn trong ngõ hẹp ngay.  Mấy giáo sư dạy Việt Văn hay Pháp văn, vì là hệ số 2 cho nên chúng tôi cũng hơi nể nhưng... không nể lắm.  Hệ số 2 ăn zero thì hệ số 4 vớt vát được mấy hồi.  Còn nói đến những giáo sư dạy môn hệ số 1 như Công Rân Ráo Rục thì bị chúng tôi coi thường vô cùng.  Lớp học vào giờ này luôn luôn ồn ào như một cái chợ, mạnh thầy nói thì nói, mạnh trò thì trò giỡn.  Có lẽ, các thầy dạy Công Rân Ráo Rục cũng biết cái thân phận mình nên chẳng có thầy nào làm khó chúng tôi.  Đi qua các lớp, hễ nghe lớp nào vui vẻ náo nhiệt như ngày tết thì biết ngay giờ đó là giờ Công Rân Ráo Rục hay Sử Địa vớ vẩn.  Bây giờ nghĩ lại, thấy tội cho những giáo sư dạy … Công Rân Ráo Rục thật.  Đặc biệt, giờ Giáo Lý tuy hệ số 1 nhưng đếch có thằng học trò nào dám làm ồn vì giờ này luôn luôn được các ông thầy dòng phụ trách, lạng quạng là ốm đòn như chơi.
Áy thế mà, khi thầy Dung vào dạy Việt văn thì mọi người đều nể sợ, dù thầy chẳng bao giờ la mắng hay đánh đập đứa nào cả.  Trước hết, sợ vì chẳng có ai biết thầy là ai, gốc gác như thế nào.  Không biết đến từ đâu, nhưng coi bộ tịch và cách ăn mặc sang trọng của thầy thì thấy... khiếp quá, đây nhất định phải là dân thứ dữ.  Thầy còn hút thuốc lá hiệu Salem.  Chẳng bao lâu, mọi thứ tiếng đồn được tung ra về thầy.  Có thứ đúng có thứ trật.  Tiếng đồn quan trọng nhất, thầy là một lãnh tụ một đảng phái chính trị đối lập nào đó, đang bị Nguyễn Cao Kỳ lùng bắt nên phải tạm lên Ban Mê Thuột ẩn danh một thời gian.  Cũng có thứ tiếng đồn ác ôn hơn như là thầy... giựt hụi ở Sài gòn, phải đi trốn.... vân vân
Riêng thầy, luôn luôn bí mật, không bao giờ nói về mình, cũng ít khi trò chuyện với ai.  Thầy có giáng dấp của một kẻ sĩ sinh bất phùng thời, hoặc một Lệnh Hồ Xung chưa làm xong lời sư phụ dạy nên chưa muốn về chùa.
Ngày đầu tiên học thầy, chúng tôi ngạc nhiên thích thú khi nghe thầy Dung giảng bài.  Phải công nhận thầy Dung có khoa ăn nói.  Thầy nói thao thao bất tuyệt, hớp hồn tất cả bọn học trò chúng tôi.  Và thầy dạy không cần theo chương trình của nhà trường, mà theo sách của bộ QGGD ấn hành.  Thầy dở sách “Giảng Văn” lướt sơ qua một cái rồi đóng sách lại, quẳng lên bàn, bắt đầu thao thao bất tuyệt về một đề tài trong sách, tùy theo hứng của thầy.  Hồi đó, giờ Việt văn có một môn mà ai cũng ngán tới cổ đó là “Truyện Kiều”.  Nhìn cái bìa cuốn sách đã thấy nản, lật vào trong còn thấy khiếp đãm hơn.
Hồi đó, chúng tôi, với đầu óc dốt nát mà lại mê ... tân thời, không thể nào nuốt trôi nổi những câu thơ của Truyện Kiều.  Ông giáo sư trước thầy cũng dạy Kiều, nhưng hễ ông nói chừng vài phút là chúng tôi đứa nào cũng muốn ngủ gục.  Để khỏi ngủ gục, phải bày ra những trò giải trí cho vui.
Nhưng đối với thầy Dung thì khác hẳn.  Thầy đã biến một môn học khô khan nhất trở thành một môn hấp dẫn nhất.  Thầy người Bắc, nên khi thầy đọc lên, một cách nhẹ nhàng trầm ấm, “Trăm năm trong cõi người ta... “ là chúng tôi cảm thấy nghe như nghe nhạc, không còn chán nữa.  Nhưng lâu lâu, thầy bỗng ngừng giảng bài, chỉ một thằng chắc có lẽ đang ngủ gà ngủ gật, quát lên như sấm động:
-Anh kia, tôi vừa nói gì đấy?  Lập lại cho cả lớp nghe coi.
Lập lại… thế đếch nào nổi vì đang ngủ gà ngủ gật mà.  Thằng khốn nạn chỉ biết đứng lên lí nhí cái gì chẳng ai nghe nổi.
Thầy lại chỉ tay vào góc nhà, quát tiếp:
-Anh lên đây đứng vòng tay lại trong góc này, xem cả lớp nghe giảng bài.  Học hành như thế mà cũng dám vác mặt đến trường làm tốn tiền bố mẹ.
Chỉ một vài lần như thế thì đếch có thằng học trò nào dám ngủ gà ngủ gật nữa…
Nhưng cái tuyệt chiêu của thầy là Thơ Mới.  Thầy chẳng những giảng thơ và còn kể luôn tiểu sử của những nhà thơ.  Có lẽ thầy giang hồ tứ xứ và quen biết nhiều nên kể chuyện về những tác giả của người bài thơ mới như Phan Khôi, TTKH, Đinh Hùng vân vân thật là hay...
Một điều đặc biệt, thầy dạy Việt văn nhưng giảng qua luôn những vấn đề thời sự và chính trị.  Thầy gieo rắc vào lòng chúng tôi những hột mầm của sự yêu nước.  Thầy thường nói, không ai thương đất nước Việt Nam mình bằng người Việt Nam mình cả.  Ngay hồi ấy, lúc quân đội Mỹ có đến nửa triệu người ở Việt Nam, nhưng thầy tiên đoán rồi Mỹ sẽ ra đi.  Thầy không ưa Mỹ, ghét Pháp thậm tệ.  Còn Cộng sản là kẻ thù không đội trời chung.  Thầy chửi luôn cả bọn tướng lãnh bất tài hồi đó.  Rồi thầy còn dạy chúng tôi luôn cả đạo làm người.  Thầy thường nêu câu sau này để dạy dỗ chúng tôi cách làm người, Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.”
Nghe những lời thầy dạy, những tấm lòng son trẻ của chúng tôi bỗng nổi dậy lòng yêu thương tổ quốc, rạt rào và bừng bừng như sóng vỗ.
Nhưng rồi một ngày năm Đệ Tam, thầy Dung biến mất thật bất ngờ cũng như lúc thầy đã đến.  Không kèn không trống, không báo trước, không có lễ tiễn đưa, chẳng một ai trong chúng tôi biết.  Một buổi sáng, giờ Việt văn, một giáo sư lạ bước vào lớp, hỏi thầy Dung đã dạy đến đâu.  Chẳng có đứa nào trả lời được vì thầy hứng đề tài nào thì dạy đề tài đó, chúng tôi làm sao biết được.  Lúc ấy chúng tôi mới thấy tiếc thầy, nhưng ai cũng tưởng thầy bị đau, chỉ nghỉ vài ngày.  Nào ngờ, thầy biến mất thật.  Từ hôm đó trở đi, chúng tôi chẳng còn bao giờ gặp được thầy Dung nữa...
Ôi, tiếc nối thôi là tiếc nối...
Chỉ không đầy một năm sau, chúng tôi đọc được những bài thầy viết trên các tờ báo lớn như Chính Luận, Xây Dựng vân vân.  Mãi cho đến lúc đó, chúng tôi mới biết rằng mình may mắn được một người có tên tuổi như Cao Thế Dung dạy.  Thật đáng hãnh diện biết bao.  Sau đó, thầy viết cả những cuốn sách nổi tiếng khác như “Làm thế nào để giết một Tổng Thống”, “Nhật Ký Đỗ Thọ” vân vân.  Cuốn nào cũng hay, làm tôi đọc say mê.
Rồi tôi vào lính.  Rồi mất nước...
Ngay từ những năm đầu tiên ở Mỹ, tôi bắt đầu được đọc thầy viết trên những tờ báo ở Hoa Thịnh Đốn với bút hiệu Hà Nhân Văn, và thầy có xuất bản cả sách nữa.  Mãi đến năm 1992, thầy có dịp về New Orleans, ngụ tại nhà Lê Hồng Thanh, khu bộ trưởng của LMDCVN,  tôi có dịp đến gặp thầy và dự vài buổi tiệc với thầy.  Nhớ mãi hôm đó, có cả nhà thơ Nguyễn Lập Đông.  NLĐ và thầy ngồi bàn về thơ Lục Bát làm mọi người ngồi nghe thật sướng.  Thầy bảo thơ Lục Bát coi tuy dễ làm, nhưng làm hay thì thật là khó.  Thầy lại đem Nguyễn Du ra dẩn giải làm tôi lại nhớ đến những buổi chiều vàng ở trường La San Ban Mê Thuột năm nào.  Cuối cùng, thầy khen thơ lục bát của Nguyễn Lập Đông rất hay, làm cu cậu sướng rên người.  Làm tôi cũng ... sướng theo vì có một thằng bạn làm thơ tới quá.
Tôi biết thầy khen thật vì thầy là con người thẳng thắn, chẳng cần lấy lòng ai.
Mới gặp tôi, thầy nhớ ra tôi ngay, hỏi thăm bố mẹ và gia đình tôi.  Tôi được ngồi tâm sự với thầy khá lâu.  Tôi hỏi thầy viết như thế nào, đánh máy hay sử dụng computer.  Thầy cười, trả lời, thầy vẫn còn viết bằng tay và sẽ không bao giờ đổi.  Thầy bảo, ở Việt Nam có lần thầy đã viết thử bằng bàn đánh máy, nhưng không thể nào viết được vì ... chữ trong đầu nó không chịu bò ra bàn đánh máy.
Hình như đó là năm 1992 thì phải.  Sau đó, tôi chằng còn bao giờ được gặp lại thầy.  Không được gặp nhưng tôi luôn luôn theo dõi những vài viết, những cuốn sách thầy viết.  Khi phong trào internet thịnh hành, tôi vẫn theo dõi những bài của thầy đăng trên net.
Nhưng mấy năm sau cùng đây, sức làm việc của thầy bắt đầu thấy yếu dần.  Lâu lâu tôi mới thấy một bài của thầy...
Cho đến hôm nay, khi được tin của anh Trương Sĩ Lương cho biết thầy đã ra đi, tôi ngậm ngùi.  Ngậm ngùi nhưng không buồn vì biết rằng, cuộc đời này, ai trong chúng ta rồi cũng sẽ đến một ngày như thế cả.  Một trong những bi kịch to lớn nhất của con người là sự rũ áo ra đi mà.  Ra đi trong hoàn cảnh nào cũng thế.  Hễ ra đi là buồn rồi.  Có khác chăng là sớm hay muộn.  Khác chăng là ra đi mà được người người nối tiếc hay bị nguyền rủa thống hận.  Khác chăng là con cái mình sẽ được hưởng cái danh thơm tiếng tốt của mình hay phải tủi nhục suốt đời vì những chuyện mình đã làm.  Khác chăng là khi xuống dưới Suối Vàng, mình còn có can đãm nhìn mặt tổ tiên mà rập đầu quỳ lạy hay phải hỗ thẹn bỏ đi trốn vì mình đã làm thằng bán nước, bán bạn bè anh em.  Cuối cùng, khác chăng là, những ngày mình còn sống, mình đã làm được gì cho tổ quốc, cho đồng bào, cho anh em, hay chỉ là một thằng ăn nhậu nói phét, cướp vợ đàn em, trở về quỳ lạy kẻ thù cũ, làm ô danh giòng họ đến muôn đời muôn kiếp...
Thầy Dung kính mến,
Thầy ra đi, em ngậm ngùi tiếc nhớ thầy.  Nhớ lại những hạt mầm yêu nước thầy đã gieo vào lòng chúng em ở trường La San Ban Mê Thuột năm nào.  “Đừng nghĩ thằng Mỹ nó yêu thương đất nước mình.  Chúng nó đến đây vì quyền lợi của chúng nó.  Một ngày nào đó, chúng nó sẽ ra đi.  Các em nên nhớ, không có ai yêu thương đất nước mình bằng người Việt Nam mình cả.  Nếu các em không yêu thương đất nước mình thì các em mong đợi ai sẽ yêu thương đất nước mình đây?”  Thầy dạy chúng em nhiều lần như vậy.
Cuộc đời của thầy là một cuộc đời tranh đấu chống Cộng sản bạo tàn và chống luôn cả những bất công tham nhũng.  Trước sau như một, thầy đã thể hiện tấm long trung trinh với tổ quốc.  Thầy không đi lính nên không bắn được một viên đạn nào để giết kẻ thù, nhưng sự nghiệp văn chương của thầy, sự tận tâm dạy dỗ của thầy, đã vạch rõ và báo động cho nhân dân miền Nam biết sự tàn bạo dối trá của bọn Cộng sản, làm cho chúng em biết yêu thương tổ quốc và tin tưởng vào tương lai của dân tộc.
Chiều nay, sau khi được tin thầy Dung mất, tôi có chuyện cần phải lái xe đi.  Dừng xe ở một trạm đèn đỏ, tôi tự dưng nghiêng người ra cửa và đưa mắt lên nhìn trời, và chợt trông thấy những đám mây trắng đang chập chùng trên cao...
Đã hơn bốn chục năm rồi, kể từ khi không còn được lái tàu bay, tôi đâm ra ghét mây kinh khủng.  Ngày xưa, tôi luôn luôn nhìn chúng nó trước khi cất cánh để ước lượng xem thử mình sẽ lái tàu, bay bên trên chúng nó, xuyên qua chúng nó, hay bay dưới chúng nó để tới mục tiêu.  Ai đã từng lái tàu bay thì phải biết là Mây có tới 9 loại và nhiều màu sắc, nhiều cao độ.  Mây luôn luôn thay đổi biến hóa và nhiều khi cũng nguy hiểm tàn độc như con người.  Phi công nào coi thường mây, liều lĩnh xách tàu chui vào thì có ngày sẽ chết mất xác.  Đã 40 năm tôi không còn nhìn mây nữa—dù ngày xưa chẳng ưa gì chúng nó nhưng ít nhất chúng nó cũng còn là bầu bạn, gặp gỡ nhau hằng ngày, trong những bầu trời bập bùng lửa đạn hay những ngày lặng im tiếng súng.  Nhưng bây giờ thì đã “nghìn trùng xa cách”, cho nên, mỗi lần nhìn lên chúng nó là mỗi lần thấy xót xa đau đớn trong lòng vô cùng vô tận.  Cuối cùng thì đừng thèm nhìn chúng nó là tốt hơn cả.
Nhưng hôm nay, thầy Dung chết, tôi bỗng lơ đãng nhìn lên những áng mây thật trắng, bay rất là đà và hiền lành dễ thương trong bầu trời xanh của nước Mỹ, nơi chưa bao giờ có đạn bom và hận thù như quê hương mình.  Và tôi thấy, trong một đám mây nào đó, làm như có hình ảnh của một Cao Thế Dung, thầy tôi ngày xưa...

Thầy bình dị nhưng cao cả làm sao.  Thầy hiền lành nhưng bất khuất làm sao...
 
Viết cho thầy,
Trường Sơn Lê xuân Nhị, Học Sinh La San Ban Mê Thuột
New Orleans những ngày vào thu
11/5/2017

Wednesday, November 1, 2017

Tự truyện của Nguyễn Thế Tân

Tôi được vào lớp Đệ thất 1 niên khóa 1956-1957 khi cơ sở trường Phan Bội Châu mới vừa xây cất xong. Lớp tôi có 65 nam sinh do anh Phạm Quỳnh Châu làm liên đội trưởng và anh Võ Linh Nghiệm làm liên đội phó.

Khác với bậc tiểu học, niên khóa đầu tiên này, chúng tôi được học thêm hai môn nhạc và vẽ. Thích nhất của tôi vào thời ấy là: trong giờ nhạc chúng tôi được xem cái máy đánh nhịp đong đưa qua lại, gõ kêu như quả lắc đồng hồ. Trong giờ nhạc, chúng tôi cũng được thầy cho luyện tập bằng cây thước bảng gỗ gõ vào bàn của thầy để kiểm tra, để tập xướng âm và hát cho đúng nhịp. Phần lớn chúng tôi đều gõ sai nhịp, do run sợ nên đã gõ liên hồi như thầy chùa gõ mõ, tụng kinh. Nhưng lần này thầy và cả lớp cùng cười, những nụ cười đầy cảm thông chia sẻ những vụng về của tuổi thơ.
    Rồi đến giờ vẽ, chúng tôi thích nhất là giờ kiểm tra các bản vẽ của toàn lớp. Tất cả các bản vẽ này đếu được treo lên bảng công khai bạch nhật, để cùng nhau trao đổi mỹ thuật, so sánh cái hay cái dở của từng bản vẽ trong môn hội họa đầy ấn tượng này, để thầy có cơ sở chấm điểm công khai.
          Năm học đầu tiên, chúng tôi được học hai buổi sáng chiều. Thời ấy các phong trào thể thao, văn nghệ cũng được phát triển mạnh. Chúng tôi cùng ngồi ca hát, nhảy múa, diễn kịch quanh ánh lửa bập bùng trong những đêm cắm trại xa trường.
    Sau ngày bãi trường đầu tiên ở lớp Đệ thất, anh Phạm Quỳnh Châu và anh Nguyễn Công Thành đề xướng dùng thời gian nghỉ hè để làm tập san”Bình Minh Thất 1”. Tập san này ra đời không có nguồn tài chánh nào hỗ trợ, mà do các thành viên trong lớp chúng tôi tự bỏ tiền ra đóng góp. Thời đó làm gì mà có tiền in ấn và có máy quay ronéo, nên mặt bìa và các trang báo trong tập san rất thô thiển từ nét vẽ đến nét chấm phá, lẫn màu sắc cũng không được đẹp cho lắm. Tôi viết chữ đẹp nên được anh Nguyễn Công Thành phân công viết bản thảo bằng ngòi viết bắp chuối chấm mực in để có nét chữ lớn rõ và đậm cho dễ đọc. Phần chính là cách trang trí các trang báo và các hình vẽ, anh Châu, anh Nghiệm và anh Thành thực hiện. Viết bản thảo xong tôi phải đọc lại, dò soát từng câu, từng chữ để tránh sai sót, và xếp đặt các bản thảo ngăn nắp nơi khô ráo tránh lem luốc. Về in ấn, chúng tôi dùng bột năng, bột mì, pha trộn với chút ít bột gạo rồi nhào nặn với nước. Sau đó chúng tôi cán ra để độ dày tối thiểu bằng một lóng tay làm nền in. nền này, căn bản phải bằng phẳng và trắng không một vết dơ nào có trên mặt, nền bột không được nhão hoặc khô. Cái khó nhất của người đứng ra in ấn là phải kiên trì và đều tay, vì khi đặt bản thảo xuống nền bột, hai tay phải đồng bộ và đều, nhẹ tay vuốt bản thảo cho êm và sâu để bản in được đậm mực trong nền bột, sau đó gỡ nhẹ ra cho đều, tránh rách giấy và nhăn nhó. Mỗi bản thảo trên nền bột chỉ in ra được khoảng 15 bản rõ chữ, càng in về sau, chữ và hình ảnh càng mờ nhạt. Khi in không còn rõ chữ, chúng tôi phá nền bột cũ, đổ nước cho mực chảy hết, thêm bột, nhào nặn làm nền khác để in tiếp.
       Rồi tập san ”Bình Minh Thất 1” cũng được ra đời, trong đó cũng chất chứa những truyện phiếm, hý họa, ký sự bằng những cây bút non nớt, rặt mùi học trò. Trong cuốn đặc san này hầu hết bài nào cũng hay và cũng chất lượng, chỉ có bài viết của tôi là chưa được hoàn chỉnh vì không biết chải chuốt câu văn và dùng từ hoa mỹ, nhưng nó lại có hồn hơn các bài khác vì chủ đề”lưu bút ngày xanh”của tôi mang đầy ắp kỷ niệm vui buồn của năm học mà  bạn bè đã ghi lại trong quyển ký ức này trong ngày bãi trường.
      Mùa tựu trường năm sau, chúng tôi được ngồi vào lớp Đệ lục 4. Sĩ số học sinh có thay đổi đôi chút vì vài đứa bạn phải rời bỏ mái trường thân yêu để theo gia đình đi xa. Có đứa phải nghỉ học vĩnh viễn để tìm kế sống ở miền quê.
 Năm nay, lớp chúng tôi có thêm được nhiều thầy cô mới đến dạy. Phong trào văn thể cũng được thầy Hiệu trưởng Lê Tá và thầy Tổng giám thị Vĩnh Giên tích cực đẩy lên đỉnh cao. Chúng tôi tha hồ tranh giải bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ và biểu diễn kịch nghệ, ca hát dưới ánh lửa bập bùng trong những ngày cắm trại ở Hố Lở, ở đồi Ngọc Lâm và ở núi Tà cú.
        Trong lớp học, các thầy cô mới đổi về, nổi bật nhất là thầy Hồ Thế Viên dạy Văn, thầy đã gây nhiều ấn tượng và niềm vui hào hứng nhất cho chúng tôi. Thầy biến lớp học thành sân khấu. Thầy bắt chúng tôi đóng kịch, diễn xuất các vai trong các bài thơ ngụ ngôn nổi tiếng của La Fontaine. Trong một bài thơ diễn tả cảnh phân xử giữa hai người tranh nhau một con sò, Nguyễn Thúc Soại, bạn của chúng tôi, là người đóng vai quan tòa, cách diễn xuất thật hoàn chỉnh khi nét mặt của Soại luôn luôn trầm tĩnh, nhưng cũng có lúc hét lên những tiếng lớn gay gắt thì tay vỗ bàn, chân dậm đất thật đúng với phong cách hách dịch của quan tòa. Trông bộ dạng diễn xuất của Soại, thầy trò chúng tôi vui nhộn và phải một phen cười hả hê, đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ kỷ niệm này.
     
       Không rõ lý do nào mà năm ấy, tôi học ít, đi chơi nhiều. Tôi đam mê đá banh, tắm biển và đi về miền quê xa hái trái cây, bắt dế. Tối dạo phố, ngồi bờ sông xem mọi người câu cá. Tôi ít khi thuộc bài, còn làm bài thì thường hay ngó trộm bạn bè để cóp pi. Kết quả cuối năm đã làm cho tôi giật mình. Điểm trung bình của tôi cả năm chỉ có 8, 50 / 20. Tôi phải thi lên lớp. Sợ cha mẹ đánh đòn vì biếng học, nên tôi liều, tự ý sửa điểm trong thông tín bạ từ 8, 50 lên 10, 50 / 20. Bị liên đội trưởng phát hiện, nhà trường bắt tôi phải thi lên lớp và đuổi học một tháng trong niên học mới. Nhập học, tôi thi lên lớp đủ điểm và được lên lớp.
 Ngày khai trường năm ấy, các bạn tôi nhập học đầy đủ, còn tôi thì bị kỷ luật, phải nhập học trễ hơn một tháng. May thay, tôi gặp được thầy Vĩnh Giên, tôi năn nỉ thầy giúp đỡ cho tôi đi học sớm, để theo kịp bạn bè. Thương tôi, tuần lễ sau, thầy can thiệp để cho tôi vào học sớm 20 ngày. Thầy Vĩnh Giên dắt tôi vào học lớp đệ ngũ 4 để học. Lúc này, lòng tôi se thắt lại và ngỡ ngàng, các bạn bè cùng học năm Đệ lục 4 với tôi, nay đã chuyển sang các lớp khác hết phân nửa, do nhà trường phân chia, cân đối lại các lớp mới theo sinh ngữ chính Anh hoặc Pháp vì các năm trước chúng tôi học hai ngoại ngữ Anh và Pháp, năm nay chỉ học một ngoại ngữ là Anh hoặc Pháp mà thôi.
Một điều làm tôi ngạc nhiên nhất là năm nay lớp nào cũng có cả học sinh nam và nữ học chung. Sau này nghĩ lại đây là dịp may cho tôi thoát khỏi căn bệnh ham chơi, lười biếng học bài. Tôi không còn dám lì lợm để”đứng chào cờ”mỗi khi trả bài nữa, và cũng vì năm nay tôi đã lớn, biết mắc cỡ với các bạn nữ sinh. Năm nay, nhà trường còn đặt ra cái băng tay, trong  đó có ghi tên họ và lớp, bắt mọi học sinh phải cài lên áo, để nhà trường dễ kiểm soát. Ai không đeo là vi phạm nội qui của trường, từ đó trong đám học sinh có 4 câu thơ :
           Thân em nho nhỏ mà xinh
           Không em một mình, anh học sao yên
          Vào trường nếu gặp thầy Giên
         Cho anh lãnh đủ hai viên tròn tròn

           Tôi vào học trễ hơn các bạn gần hai tuần lễ, nên các bài dạy của các thầy cô vẫn còn nằm ngổn ngang phía trước đối với tôi rất nhiều, bắt buộc tôi phải phấn đấu tìm bạn bè để xin chép lại bài vở cho đầy đủ, để học cho theo kịp các bạn.
      Một buổi trưa, tôi mạnh dạn đến nhà trọ của Lưu Thị Hồng Anh, người bạn gái cùng lớp nhỏ hơn tôi hai tuổi, để mượn bài vở chép lại. Gia đình Hồng Anh ở tận Ma Lâm cách Phan thiết 16 km, nên khi xuống tỉnh học Hồng Anh phải ở trọ tại nhà người bà con ở trong một con hẻm cách nhà tôi chừng 500 m. Căn nhà trọ này, ngoài nhà ở, còn có một lớp học, nằm bên trong một cái chái vách ván, nóc lợp tôn, trong đó chứa chừng mươi bộ bàn ghế cũ để dạy tư học trò bậc tiểu học trong xóm, chủ nhà trọ là thầy cô giáo làng, rất hiền lành, và chị giúp việc cũng lớn hơn tôi chừng mươi tuổi. Các người trong nhà lúc nào cũng niềm nở, chuyện trò vui vẻ với tôi mỗi khi tôi đến giao tiếp với Hồng Anh. Lúc đầu, tôi còn ngỡ ngàng, mượn vở về nhà chép, nhiều lần đến tôi trở thành quen, rồi tôi đem một chồng vở vào ngồi ở lớp học chép bài trong các giờ nghỉ. Lắm lúc sau này, ban đêm rảnh, tôi cũng thường tới chơi, gặp Hồng Anh trò chuyện và nhờ cô bạn chỉ bài cho tôi. Khung cảnh đầm ấm này, tôi trở thành người thân của gia đình, tôi được Hồng Anh và mọi người quý mến.
       

      Rồi cứ mỗi chiều Chúa nhật, tôi xuống đây thật sớm, để chờ Hồng Anh từ Ma Lâm xuống cho tôi mượn bài tập để chép và giảng giải lại những bài tôi còn thắc mắc mà ở lớp học tôi chưa được hiểu tường tận. Nhờ vậy, mà một thời gian sau tôi học tiến bộ, tiến gần kịp với các bạn trong lớp. Một hôm, vào ngày Noel, tình cờ tôi được Hồng Anh tặng cho tôi một thiệp mừng Giáng sinh (Hồng Anh theo đạo Tin Lành), mặt trước của thiệp là hình Chúa Hài đồng rất đẹp. Bên trong có những giòng chữ xinh đẹp của Hồng Anh ”Mến tặng Nguyễn Thế Tân, người bạn cùng lớp”. Rồi gần Tết, tôi cũng được Hồng Anh tặng thiệp mừng xuân. Nhờ Hồng Anh, mà năm nay tôi đã giảm đi chơi và bắt đầu chú tâm vào việc học, nên cuối năm Đệ Ngũ 4 tôi thừa điểm để lên Đệ Tứ.
        Mùa hè đã trôi qua được gần một tháng. Lâu quá không gặp Hồng Anh, tôi lên Ma Lâm bằng xe lam để thăm Hồng Anh. Gặp tôi, Hồng Anh mừng lắm, tôi lại giường thăm mẹ Hồng Anh đang bệnh, và cầu mong ơn trên ban phước lành để bà mau hết bệnh. Chơi ở đây chừng một tiếng tôi cáo từ ra về.
           Ngày bãi trường của năm Đệ Ngũ 4, một lần nữa anh Phạm Quỳnh Châu và anh Nguyễn Công Thành lại mời tôi cộng tác để ra tập san ”Tiếng Thơ”. Qua kinh nghiệm cách làm tập san lần trước, lần này tập san ”Tiếng Thơ”ra đời sớm hơn dự định. Trong tập san này, tôi có hai trang để viết bài ”Mùa phượng vĩ”. Anh Châu và anh Thành cho biết bài vở của tôi lần này có tiến bộ nhiều, trong đó có 2 câu thơ tôi đặt mà ngày nay tôi vẫn còn nhớ.
              Bình Minh Thất một ra đời
              Tiếng Thơ Ngũ bốn cách vời hai niên

           Rồi đến mùa khai trường, tôi được lên lớp Đệ Tứ 4, bao nhiêu bạn bè chúng tôi dốc hết sức mình vào kỳ thi Trung học đệ nhất cấp. Lần này tôi chơi ít, học nhiều. Được người chú học ở Sài gòn gởi về cho tôi sách vở, tài liệu luyện thi, lúc đó tôi có thêm bạn  Nguyễn Duy Điểu nhập nhóm cùng học thi. Chúng tôi đã làm hết các bài tập Toán, Lý, Hóa và Anh văn trong tài liệu chú tôi gởi về. Bên cạnh đó tôi cũng được Hồng Anh chỉ dẫn thêm. Kết quả kỳ thi năm đó chúng tôi đều trúng tuyển ở kỳ thi 2.
      Đậu xong, được lên Đệ Tam A, Hồng Anh, Điểu và tôi tiếp tục học chung. Đã có căn bản về các môn Toán, Lý, Hóa, Anh, tôi rất thích học và không còn ham chơi nữa. Năm Đệ Tam A là năm dưỡng sức, việc học bình thường. Điểu và tôi được nhà trường cử đi thi điền kinh cùng với các bộ môn khác như bóng đá, bóng rổ do thầy Vũ Ngô Hoằng dìu dắt đi Nha Trang thi. Tất cả các bộ môn thi đều không đạt, chỉ duy nhất Nguyễn Duy Điểu đoạt huy chương vàng ở bộ môn điền kinh chạy 1500 m. Tiếng hoan hô Điểu khi chạy về nhất vang dội tưởng chừng như vỡ cả hội trường. Lớp của chúng tôi đoạt chức vô địch bóng đá của trường mà tôi là thủ môn của đội bóng.
      Rồi ba tháng hè cũng trôi qua, bước vào năm học Đệ Nhị A, chúng tôi lại dồn sức để học thi Tú tài 1. Học được 2 tháng thì mẹ tôi là cô giáo được đổi về dạy học ở ngay trung tâm Sài gòn. Lúc này Điểu, Khoa (em ruột tôi) và tôi ở chung tại nhà tôi. Tháng thứ ba, tôi xin giấy chứng nhận của trường Phan Bội Châu để chuyển về Sài gòn học.
         Vào Sài gòn, tôi bỏ ban A, chuyển sang ban Toán B, ở đây tôi học trường tư thục Quốc Anh, chiều và tối học luyện thi ở trường Văn Lang và Việt Nam học đường. May mắn cho tôi, những bài luyện thi của các trường này đều trúng tủ trong kỳ thi. Tôi rớt kỳ 1, nhưng đậu kỳ 2 Tú Tài 1 ban B.
          Năm sau, tôi tiếp tục học Đệ Nhất ban B trường Văn Học của giáo sư Trần Bích Lan (nhà thơ Nguyên Sa). Niên học này tôi học chung với chị Lê Thị Thanh Lan (chị ruột Lê Thiệu Hùng) mãi nhiều năm sau mới biết học chung với cả Lê Quang Chiêu, sở dĩ như vậy vì mặc dù hai người đều học chung trường với nhau từ năm lớp Đệ Thất, nhưng hai người học khác lớp, Chiêu học Đệ Thất 3 ở trường cũ đường Trần Hưng Đạo, tôi học ở trường mới, rồi khi hai lớp ở trường cũ chuyển về trường mới, chúng tôi cũng không học chung và không biết nhau.
           Tốt nghiệp Tú Tài 2, tôi lại tốt nghiệp trường trung cấp ngành viễn thông quân đội. Một thời gian dài sau đó, chúng tôi mỗi người đi một nơi, đầu năm 1996, tôi về Phan Thiết chơi, ghé Phú Hội dể thăm vợ chồng Nguyễn Văn Xít và Nguyễn Thị Duyên. Tôi không gặp Hồng Anh đã lâu, biết Duyên rất thân với Hồng Anh, tôi hỏi thăm tin tức của Hồng Anh thì được Duyên cho biết Ngọc Diệp mới gặp Hồng Anh ở Phan thiết. Hiện nay Hồng Anh là một ni sư Phật giáo. Duyên khuyên tôi nên trực tiếp gặp Ngọc Diệp để biết rõ hơn vì hai người học chung khóa Nữ hộ sinh quốc gia. Tôi xuống Bình Hưng ghé nhà gặp Ngọc Diệp. Nhiều năm xa cách hai người gặp nhau rất mừng. Tôi hỏi tin tức Hồng Anh thì Ngọc Diệp cũng nói như Duyên. Chúng tôi trao đổi nhau số điện thoại và và số nhà để tiện liên lạc.
Một tháng sau, tôi nhận được thư của Ngọc Diệp cho biết hiện nay Hồng Anh đang sống ở Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, nếu đi thăm cứ vào các gian hàng bán vải ở chợ Đồng Xoài hỏi Hồng Anh người Phan Thiết thì ai cũng biết.
         Mừng quá, nên một buổi sáng, từ Sài Gòn tôi đáp xe khách nhỏ, tài nhất đi Đồng xoài. Tới các tiệm vải trong chợ hỏi, thời may gặp ngay chủ sạp là bạn thân của Hồng Anh, cùng lúc đó con gái của Hồng Anh đi qua, chủ sạp gọi lại, nhờ đưa tôi đi gặp mẹ cô. Đến nơi, một tịnh thất bằng gạch nhỏ xinh, tôi gặp một Hồng Anh ni cô mặc áo nâu, đang tưới hoa trồng chung quanh tịnh thất của mình. Hồng Anh không nhận ra tôi vì hai người xa cách nhau đã 35 năm, tôi bây giờ đã thay đổi rất nhiều, nên tôi phải giới thiệu, bấy giờ Hồng Anh mới nhận ra tôi, nên rất mừng. Hồng Anh tu một mình trong tịnh thất này, trong tịnh thất trang hoàng trang nhã, bàn thờ Phật rất tôn nghiêm, tôi lạy Phật và chuyện trò với Hồng Anh suốt 2 giờ đồng hồ để ôn lại kỷ niệm thời học ở trường Phan Bội Châu. Ra về, tôi được Hồng Anh tặng cho một cuốn kinh Phật viết song ngữ Anh – Việt, tác giả là một vị thiền sư người nước ngoài.
       Quả thật trời không phụ lòng người, từ sài gòn về Đồng Xoài chỉ một lần tôi đã gặp được Hồng Anh, người bạn cũ rất thân. Về đến nhà, niềm thương nhớ bạn dâng tràn. Tôi thức suốt đêm đó viết cho Hồng Anh một bức thư dài 8 trang, ôn lại ký ức xưa, trong đó tôi không quên cám ơn Hồng Anh đã hướng dẫn tôi học và làm bài, từ đó làm bệ phóng cho tôi đậu Tú tài 2 để sau đó tốt nghiệp trung cấp Viễn thông, nhờ đó tôi được bình yên sống sót cho đến bây giờ, qua giai đoạn chiến tranh khốc liệt, tôi cũng mời Hồng Anh, nếu có dịp ghé thăm nhà tôi.
       Một tháng sau, tôi nhận được thư của Hồng Anh dài 6 trang, trong đó ghi nhận lại hồi ức thời áo trắng thật trân quí, cao thượng và ngọt ngào ờ trường Phan Bội Châu thân yêu. Hồng Anh khuyên tôi sống với chánh niệm hiện tại và nên gia nhập một đạo tràng để tu học làm hành trang tốt lành cho kiếp sau. Lá thư viết chữ rất đẹp, nên tôi photocopy nhiều bản, gởi cho Ngọc Diệp ở Phan Thiết, và gởi cho các con tôi, ai cũng khen ngợi chữ viết đẹp, lời văn nhiều tình cảm trong sáng và cao thượng.
        Tháng sau, trong lúc tôi đang tưới cây trong vườn nhãn, thì thấy từ xa hai ni cô đang tới gần, nhìn kỹ thì ra Hồng Anh và một ni cô nhiều tuổi, vợ chồng tôi vui mừng tiếp đón và mời dùng cơm chay. Tối lại, bên cạnh bình trà, đĩa bánh ngọt, tôi và Hồng Anh lại ôn lại chuyện cũ, hết chuyện này đến chuyện khác, đến khi nghe tiếng gà gáy canh tư mới chấm dứt đi nghỉ.
         Sáng hôm sau, hai ni cô từ giã gia đình tôi trở về Đồng xoài, người ở lại và người đi đều bịn rịn, chạnh lòng.
Tháng 9 / 2003, lúc tôi đi vắng về, em tôi cho biết có bạn Dương Tấn Quí tới thăm và hỏi thăm về Hồng Anh vì biết chỉ mình tôi biết nơi ở của cô bạn ấy, mặc dù Quí là anh họ Hồng Anh, nhưng vì từ khi xa xứ, Hồng Anh rất ít về quê cho nên không ai biết ở đâu để liên lạc.
          Một hôm, tôi từ Bà Rịa lên thăm con ở Sài gòn thì Quí gọi điện thoại rủ tôi cùng đi tới nhà Hồng Anh, tôi nhận lời, thì ngay lúc 18 giờ chiều hôm đó Quí chạy xe gắn máy tới nhà rủ tôi đi, bao nhiêu người đều ngăn cản bảo bây giờ gần tối rồi để mai hãy đi, nhưng tôi và Quí vẫn đi.
   Quí chạy xe rất tốt, chạy nhanh nhưng tay lái vẫn vững. Trời tối dần, rồi tối đen, bầu trời chỉ còn các vì sao lóng lánh, chúng tôi đi qua hàng chục cây số hai bên đường chỉ toàn cây cao su, không một bóng người, hai đứa sợ bị cướp xe, tôi nghe rõ tiếng Quí lẩm bẩm luôn trong miệng ”án ma ni bát di hồng”.
       8 giờ tối, chúng tôi bình yên đến chợ Đồng Xoài, nhưng con đường vào nhà Hồng Anh nay đã khác trước, văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng tại đây, cảnh vật thay đổi rất nhiều, chúng tôi không tìm thấy nhà Hồng Anh nữa, vì vậy chúng tôi phải tìm phòng trọ nghỉ qua đêm. Bỗng Quí có ý kiến, Hồng Anh là ni cô, chúng ta tới các chùa hỏi hy vọng tìm ra nhà, trên đường tìm nhà trọ, chúng tôi thấy một ngôi chùa, nhưng vì đã khuya nên cổng chùa đóng, may thay có một nữ Phật tử đi xe gắn máy đi qua, thấy chúng tôi đứng xớ rớ trước cổng chùa, bèn dừng xe lại hỏi thăm. Tôi nói tôi là anh của sư cô Hương Quang (Pháp danh của Hồng Anh), tới nhà cũ thì đã dời đi rồi, không biết tìm ở đâu nên định vào chùa hỏi thăm, nhưng cổng chùa đã đóng. Một lần nữa chúng tôi lại gặp may vì người đó là người quen của Hồng Anh, nên đã đưa chúng tôi tới cửa tiệm của người con gái Hồng Anh, cô này nhận ra tôi vì lần trước tôi đã gặp cô tại tịnh thất của mẹ cô. Sau đó cô gái đã đưa chúng tôi về nhà mới của mẹ cô. Để dành sự ngạc nhiên cho Hồng Anh, tôi để Quí vào nhà trước, Hồng Anh ngỡ ngàng, không biết vì đâu Quí lại biết đến đây, mấy chục năm xa cách anh em hôm nay mới được trùng phùng, thật hạnh phúc. Anh em Quí nói chuyện chừng 10 phút, Quí ra ngoài dắt tôi vào, gặp tôi lần này Hồng Anh thắc mắc làm sao chúng tôi tìm được nhà mới này, chúng tôi bèn nói là do Trời Phật chứng giám cho lòng thành của chúng tôi quyết chí tìm cho được Hồng Anh.
     Sau khi con gái Hồng Anh dọn cơm cho chúng tôi ăn, trời đã khuya, Quí quá mệt do chạy xe trên trăm cây số, tinh thần lại căng thẳng, nên ăn xong là ngủ ngay trên võng đến sáng, còn tôi và Hồng Anh lại một đêm nữa thức trắng để hàn huyên, đến khi tiếng chuông chùa công phu sáng vang lên hai chúng tôi mới đi nghỉ lưng. Nghe tiếng ngáy của Quí, tôi nghĩ mông lung và thiếp đi lúc nào không hay. Sáng ra, sau khi ăn sáng, chúng tôi chia tay Hồng Anh về lại Sài Gòn, chúng tôi mỗi người được Hồng Anh tặng ba cuốn kinh Phật.
    Từ đó đến nay đã 12 năm trôi qua tôi không có dịp thăm lại Hồng Anh và không gặp lại Quí. Thời gian trôi qua nhanh như nước chảy qua cầu, Mới ngày nào chúng ta còn bỡ ngỡ bước chân vào mái trường Phan Bội Châu, vậy mà đã 60 năm trôi qua và nay chúng ta ai cũng”cổ lai hy“, các bạn người còn, người mất, người còn thì tóc đã bạc, sức khỏe đã kém, có bạn mắt đã mờ, tai đã phải nói to mới nghe rõ, chân đã chậm, nhưng với tôi, trời phú cho, chân tay vẫn mạnh khỏe, tai, mũi vẫn còn tỏ tường, mắt chưa cần đeo kiếng, tuy nhiên hoàn cảnh của tôi hơi đặc biệt vì thường xuyên ở nhà một mình giữa vườn cây trái vắng vẻ, láng giềng không ở gần bên và con cháu cũng đều ở xa. Bà xã vì thương con, thương cháu nên cũng thường đi thăm và ở với chúng nó, vì vậy bả ít khi có mặt ở nhà, nên mọi công việc ở nhà đều do một mình tôi đảm đương.
         Tôi có hai niềm vui, thứ nhất là đọc sách, thứ hai là được nói chuyện tán gẫu với bạn bè, nhưng vì tôi ở Bà rịa, miền quê vắng vẻ, các bạn thân học chung trường, chung lớp từ xưa không ai ở gần tôi cả, nên ngoài việc thường xuyên gọi điện thoại cho các bạn, thỉnh thoảng có dịp tôi lại ghé về Sài Gòn vui với các bạn một buổi, sở dĩ tôi nói các bạn là vì mỗi khi lên Sài Gòn tôi thường ngủ nghỉ ở nhà Điểu và khi tôi đến thì Điểu gọi điện thoại hẹn là nhiều bạn có mặt ăn uống vui chơi ở một nơi nào đó ngay.
    Tôi được biết đã nhiều năm cứ đến giao thừa là vợ chồng Chiêu thường đi xông (đạp) đất đầu năm nhà các bạn Son, có năm tới nhà Điểu, và nhà Nghệ. Ở nhà Nghệ các bạn vui vẻ chuyện trò, đánh bài”xì dách” đầu năm, mà mỗi người đàn ông làm cái 5 ván đến hết tua mới nghỉ, vì vậy có năm đến tận gần 3 giờ sáng, để xem hên xui thế nào, biết được việc đó nên đã 3 năm nay tôi đều tới nhà Điểu từ chiều 30 Tết, để đến khi giao thừa hai chúng tới ngay nhà Nghệ đón vợ chồng Chiêu, vợ chồng Son, và chúng tôi chúc tết lẫn nhau thật vui vẻ.
     Tôi lại được biết một điều nữa là cũng đã nhiều năm nay gia đình Cẩn có thông lệ, tối mùng 2 Tết mời họp mặt vợ chồng các bạn Tài, Thăng, Điểu, Chiêu, Son, Nghệ tại nhà ăn uống, chúc mừng nhau, bao nhiêu chuyện vui kể cho nhau nghe, Cẩn múa bút đầu năm, tặng chúng tôi những câu ”lời hay ý đẹp” viết theo lối thư pháp, vì vậy cũng từ 2 năm nay có thêm tôi. Thật hạnh phúc đối với tôi khi còn có sức khỏe để xum họp,vui vẻ với các bạn thân cùng khóa.                                           
                Bao giờ cho đến ngày xưa
                Lúc mà con nhện chưa sa nỗi buồn

  Tặng Thế Tân và Hồng Anh

Đêm Chong Đèn Ngồi Nhớ Lại - Hoàng Công Bình

Năm 2002, Trường tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày thành lập, năm 2012 kỷ niệm 60 năm. Rồi sẽ đến lúc ky niệm 70, 80 năm…Ở những mốc thời gian đặc biệt này, nhiều người trong chúng ta tự hỏi: Mấy chục năm qua trường THPT Phan Bội Châu Phan Thiết đã làm được gì cho đời và để lại gì trong lòng người, nhất là đối với những người đã từng học tập, từng giảng dạy, từng công tác, từng gắn bó với trường.
         Thực cũng khó để nói được đầy đủ chính xác, bởi thành quả của hoạt động giáo dục trong một quá trình gần trọn đời người, không dễ nói hết được bằng những điều cụ thể. Lao động sư phạm là một loại hình lao động mà sản phẩm không thể đem ra trưng bày, không thể định giá bằng những chuẩn mực cân đo đong đếm, thành tích mà chúng ta nói với nhau cũng chỉ là ước lệ. Thực chất tiềm ẩn trong từng con người được hưởng thụ giáo dục. Dẫu không trực tiếp biến thành xương cốt, thành máu thịt của con người nhưng lại chi phối rất lớn đến sự hình thành tri thức, đi vào tâm hồn vào tình cảm con người, thể hiện nhân cách sống, chất lượng sống của từng con người và của cả xã hội. Hiệu quả của hoạt động giáo dục rất rộng, rất đa dạng, có những hiệu quả thể hiện cụ thể nhưng cũng có những hiệu quả tiềm ẩn khó nhận ra. Tuy vậy, trong một chừng mực tương đối, chúng ta cũng có thể thấy đôi điều trường Phan Bội Châu đã làm được. Ví như, trong chức năng dạy học bậc trung học ở địa phương.
       Căn cứ vào số học sinh vào trường, ra trường trong 60 năm qua thể hiện trong sổ sách còn lưu trữ tại trường, tuy không đầy đủ do một vài năm bị thất lạc nên không thực sự chính xác, nhưng cũng có độ tin cậy.
Số vào trường qua 60 kì tuyển sinh: 48929
Vào lớp 6 :
Từ năm học 1952- 1953 đến năm học 1974-1975: 8846.
Từ năm học 1994-1995 đến năm học 1999-2000: 2592.
Tổng đầu vào lớp 6: 11438.
Vào lớp 10 :
Từ năm 1959-1960 đến năm học 2010-2011: 37491.
     Ngoài số học sinh vào trường qua các kỳ thi tuyển, còn một số không nhỏ học sinh chuyển từ các trường khác đến, có năm số chuyển trường vào rải rác các lớp lên đến 20%-30% số trúng tuyển. Phải chăng đây là biểu hiện của lòng tin của phụ huynh học sinh muốn gởi gắm con em mình cho nhà trường dạy dỗ.
Số học sinh ra trường qua 55 ky tốt nghiệp : 38184
Số ra trường qua ky thi Trung học đệ nhất cấp, Trung học cơ sở: 8248.
Trung học Đệ Nhất cấp (1956-1975) : 5482.
Trung học cơ sở (1994-2003) : 2766. (Từ năm học 1975-1976, đến năm học 1993-1994 trường không có cấp II, trung học đệ nhất cấp)
Số ra trường qua kỳ thi Tú Tài, Tốt nghiệp THPT: 29936.
Chỉ tính riêng số trúng tuyển vào lớp 10, (đệ tam):37491
Số tốt nghiệp Trung Học PhổThông (Tú Tài) : 29936
Tỷ lệ của hiệu quả đào tạo gần 80% là một tỷ lệ khá cao đối với bậc học THPH (TH Đệ nhị cấp)
        Dựa vào những con số trên có thể đánh giá được hiệu quả giáo dục của nhà trường. Song, điều có ý nghĩa hơn, có giá trị và đáng được trân trọng hơn được biểu hiện qua sự lớn lên trong từng cá thể học sinh.
Khi vào trường, là những cô cậu bé vừa học xong cấp một, hoặc hết cấp hai với những hiểu biết cơ sở. Sau một thời gian học tập và rèn luyện ở trường, những cô bé, cậu bé ngày trước đã lớn hẳn lên. Sự lớn lên không chỉ bằng chiều cao, cân nặng, không chỉ bằng những điều học hỏi được qua giáo khoa những môn cơ bản, mà còn qua các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; có những tiềm năng văn nghệ thể thao, giao lưu và các mối quan hệ xã hội có điều kiện thành năng lực tao nên thành quả chung cho một con người và cho một ngôi trường, trường Phan Bôi Châu. Và, những cô cậu bé ngày trước ấy thoát xác thành những thanh niên tuấn tú, với ”học vị” Tú tài, đủ tri thức đễ học tiếp đại học hoặc cũng vững vàng tự tin đi vào cuộc sống. Đây là nhiệm vụ chính nặng nề mà trường Phan Bội Châu đã hoàn thành, đặc biệt, trong điều kiện có nhiều có khăn.
Nhớ lại buổi ban đầu chỉ với tấm lòng của 14 Thầy giáo không xuất thân từ các trường sư phạm, nhưng lại có lòng yêu nghề dạy học đến tuyệt vời. Xin được trân trọng bày tỏ lòng cảm phục và biêt ơn quý Thầy.


      Chỉ 14 thầy đã phải xoay sở mọi điều từ lập hồ sơ xin phép, mượn cơ sở phòng ốc, tổ chức tuyển sinh, thống nhất chương trình giảng dạy (sự chỉ đạo từ trên ngày ấy rất mờ nhạt), để có được ở Phan Thiết một Trường Trung Học đầu tiên, với tên Trường Trung học Bình Thuận, khai giảng vào ngày 15 tháng 9 năm 1952 tại Trường tiểu học Đức Thắng (nay là trường Tiểu học Đức Thắng 2). Trường có 2 lớp đệ thất (lớp 6) 120 học sinh. Hình ảnh các Thầy, các học sinh trên sân trường trong ngày khai giảng của năm học đầu tiên, nay đã vượt lên hình ảnh của những con người cụ thể thăng hoa thành những giọt nước đầu tiên khởi nguồn cho một dòng chảy-một dòng chảy thân thương chảy suốt 60 năm qua và còn tiếp tục chảy trên quê hương Phan Thiết này. Trong dòng chảy đó có hình ảnh những tà áo dài trắng nữ sinh làm sáng cả con đường Nguyễn Hoàng-Lê Hồng Phong vào những giờ tan học. Trong dòng chảy đó có tiếng hát hồn nhiên ngọt ngào trong những buổi văn nghệ phát thưởng cuối năm tổ chức ở các nhà hát Ngọc Thúy, Lilas hay những đêm văn nghệ mừng ngày nhà giáo 20 tháng 11 tại nhà hát ngoài trường trên quảng trường Nguyễn Tất Thành. Trong dòng chảy đó có không khí sôi nổi của những trận bóng đá giành cúp vô địch các trường trung học Nam Trung Bộ năm 1960, vô địch học sinh trung học phổ thong Bình Thuận trong thập niên 90 của thế kỉ trước. Trong dòng chảy đó có ánh lửa trại bập bùng ở đồi Ngọc Lâm, ở Hố Lở Phú Hội, ở Đồi Dương, ở rừng keo lá tràm Tiến Lợi. Trong dong chảy đó có cả mồ hôi trên công trường thủy lợi Sông Pha, trên đập nước Phú Hội, trên nhà máy điện Hàm Liêm, trên nương rẫy Bình Tú, trên hồ nuôi tôm Vĩnh Thủy. Nhưng đậm đà hơn hết, trong dòng chảy đó vẫn là hình ảnh những lớp học Thầy tận tâm, trò nỗ lực, chăm chỉ miệt mài. Từ đó đến nay đã 60 thế hê học sinh nên người. Thực đáng trân trọng!
        60 năm qua, trường đã thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học bậc trung học ở quê hương Phan Thiết-Bình Thuận. Không ít học sinh xuất thân từ ngôi trường thân thương này đã thành đạt trong đời sống xã hội, không ít đã và đang đảm đương những vai trò quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế. Nhưng quan trọng hơn là hầu hết đã nên Người tử tế, sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với xóm làng, với cộng đồng, với xã hội, gắn bó thủy chung với Trường, luôn nghĩ và nhớ về nhà Trường như nghĩ và nhớ về 1 cội nguồn, luôn nghĩ và nhớ Thầy Cô như nghĩ và nhớ về cha mẹ, luôn nghĩ và nhớ về bạn bè thời đi học như nghĩ và nhớ về anh em ruột thịt. Đó là điều quí báu mà Trường đã làm được. Đó là điểm sáng, tạo nên niềm tin yêu, và tín nhiệm trong lòng người dân Phan Thiết- người dân Bình Thuận. Đó là truyền thống tốt đẹp mà các thế hệ sau này của Trường phải gìn giữ và phát huy.
      Thực ra mấy năm đầu mới thành lập, với đội ngũ 14 Thầy hầu hết có tính nghiệp dư trong nghề dạy, chưa có phòng ốc trường lớp, chương trình giảng dạy, sách vở học tập chỉ mới bước đầu đi vào quy củ và xây dựng nề nếp, nên 1 số gia đình khá giả, có điều kiện ở địa phương vẫn chưa cho con em mình dự tuyển vào trường mà còn gởi đi ”du học” ở các tỉnh khác như Nha Trang, Sài Gòn thậm chí cả Huế, Đà Lạt, nhưng chỉ cần ba, bốn năm sau, nhờ Thầy tận tâm với nghề, thể hiện hết tình thương và trách nhiệm trong từng hoạt động sư phạm. Trò chăm chỉ học tập quên mình để bù vào 1 thời ”đói học” của cha anh nên dù còn trăm thứ bộn bề, nhưng Trường đã ra Trường từ độ đó. Trường đã có sức hút giáo dục, sức hút sư phạm ngày càng mạnh mẽ; không chỉ số lượng học sinh ghi tên thi dự tuyển vào trường ngày càng đông, mà số học sinh Phan Thiết- Bình Thuận những năm về trước đi”du học” ở các tỉnh cũng lần lượt rủ nhau xin chuyển về. Mong muốn được học trường Phan Bội Châu không chỉ là của học sinh mà còn của nhiều phụ huynh, gia đình đối với con em mình. Tập thể sư phạm nhà trường đã xây dựng một địa chỉ giáo dục có uy tín, được cộng đồng tin cậy. Từ một trường Trung học đệ nhất cấp (trung học cơ sở) năm 1952- 1953, năm sáu năm sau đã mở thêm những lớp đệ tam, đệ nhị (lớp 10, lớp 11) của bậc đệ nhị cấp (cấp III). Đến 10 năm sau, năm học 1962- 1963, Trường đã có học sinh đầu tiên dự thu Tú tài toàn phần và đã cho vào đời những cô Tú cậu Tú đầu tiên ”made in Phan Bội Châu- Phan Thiết”. Đến nay xấp xỉ bốn mươi ngàn tú tài dành cho học sinh xuất thân từ trường Phan Bội Châu. Đó là một thành quả không nhỏ được thể hiện bằng con số. Nhưng cái không thể hiện được bằng con số lại lớn hơn.
Lại cũng ví như, trường đã tạo cơ hội cho tuổi trẻ Phan Thiết- Bình Thuận bộc lộ tinh thần hiếu học của mình. Khơi dậy năng lực học tập.
      Trước năm 1952, lúc mà ở Bình Thuận chưa có trường trung học, ngoài con em của một số gia đình khá giả sau khi học xong tiểu học được cho đi các nơi khác học tập tiếp, đa số còn lại đều ngậm ngùi an phận với câu Văn chương không bằng xương cá mòi và phó thác cuộc đời đói chữ của mình cho sông nước, cho biển cả. Trong cái thế chẳng đặng đừng đó lại bị mang tiếng dân quê mình xem thường cái chữ nghĩa. Năm 1952, Trường Phan Bội Châu đã mang cái học bậc trung học về đây, là cơ hội tốt để con em Phan Thiết- Bình Thuận, thể hiện tinh thần hiếu học. Vào những năm 50-60, ai đã từng ở Phan Thiết, nếu có dịp ra đường vào 4, 5 giờ sáng chắc sẽ nghe râm ran những tiếng học bài trong những căn nhà nhỏ, dưới vùng sáng hiu hắt của ngọn đèn dầu! Hoặc có dịp vào nhà, chắc sẽ thấy, trên tường, trên vách cột, thậm chí có khi trên cả mặt bàn mặt ghế ghi đầy những công thức toán học, công thức vật lý, phản ứng hóa học, các mốc thời gian đáng nhớ của lịch sử, các địa danh đặc biệt. Từ đó có thể biết, trong nhà có con em đã hoặc đang học lớp nào của trường Phan Bội Châu. Cái học được bày ra khắp nơi, ai cũng nghe, cũng thấy và cũng mừng thầm cho cái ngày mai ở vùng đất này.
      Trong khóa thi tú tài II năm 1963 tổ chức tại Nha Trang dành cho học sinh các tỉnh Nam Trung phần, Bình Thuận có 70 học sinh của 2 lớp đệ nhất trường Phan Bội Châu. Là những học sinh tỉnh lẻ ra Nha Trang còn mang theo vị mặn của biển muối, cái ngai ngái nồng nàn của nước mắm làm mấy cô, mấy cậu nhà mình rụt rè tự ti đến tội nghiệp. Trong cái mặc cảm thua thiệt đó đã thầm thúc đẩy nhau cố gắng cho bằng người, ít nhất cũng trong học hành thi cử. Trong buổi xướng danh (đọc tên những người tốt nghiệp), các cô các cậu nhà mình cũng xúm xít bên nhau trong góc vắng của sân trường Võ Tánh, nhưng chính trong cái góc vắng đó lại vang lên nhiều tiếng vỗ tay reo hò hơn cả. Tối hôm đó, trên đường phố Nha Trang, những cô Tú, cậu Tú tân khoa  “made in Phan Bội Châu-Phan Thiết” hết sức tự tin nhìn người và nhìn đời. Xin cảm ơn các Thầy Cô, xin cảm ơn nhà Trường đã cho những thế hệ học sinh mình góp mặt với đời một cách vững vàng, tự tin.
Hôm nay, đứng ở sân trường, nhìn những phòng học trên những tầng lầu kiên cố, sáng sủa. mát mẻ, đẹp đẽ; nhìn các phòng làm việc, thư viện, khu thí nghiệm thực hành, nhà luyện tập và nhà thi đấu đa năng; rồi trang thiết bị, sách vở… tất cả đều hơn hẳn năm, sáu mươi năm về trước. Thực đáng mừng, đáng tự hào và phải hết sức trân trọng giữ gìn. Song thời gian sẽ làm cho gạch đá, kể cả sắt thép cũng phải hư hỏng, chắc chắn sẽ được thay thế tốt hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn. Chỉ mong Nếp trường còn được giữ mãi và ngày một dày thêm.
                   Sáu mươi năm trước đây là mộng
                   Hiện thực bây giờ cũng tưởng mơ
                   Bến Ngự Người đi hồn đọng lại
                   Đồng tâm hậu thế “ Nhật nhật tân”
  Hoàng Công Bình

Trung Học Phan Bội Châu 1956-1957 (60 năm Phan Bội Châu)

 
Tình bạn thuở học trò là một trong những quan hệ tốt đẹp nhất trong xã hội. Quan hệ này vô cùng trong sáng, chân tình và hết sức thủy chung, bởi quen nhau dưới mái trường, trong cùng một lớp học, không bao giờ tính toán thiệt hơn, không bao giờ dối trá lừa lọc, không bao giờ cố ý làm tổn thương nhau và giữ mãi cho nhau những điều tốt đẹp, đó là sự chân tình, trong sáng. Chúng ta gặp nhau, quen nhau trên sân trường Phan Bội Châu- Phan Thiết từ năm 1956, lúc đó còn là những cô chú nhóc con, đến nay năm 2015, gần tròn 60 năm mà gặp nhau vẫn mày tao, đùa vui như “đàn khỉ nhỏ”, đó chính là  sự thủy chung.
          Đến năm 1963 hầu hết chúng ta ra trường, rời khỏi Phan Bội Châu, mái nhà chung của 261 cô cậu trúng tuyển vào Đệ Thất năm 1956 và sau này bổ sung thêm từ các trường khác về học chung khóa lên đến 311 người (có thể chưa chính xác), chúng ta không có dịp gặp nhau hàng ngày nữa, nhưng luôn nhớ về nhau, và nếu có dịp cũng cố gắng tìm đến thăm nhau, nhất là những lúc vui, buồn, ốm đau. Giờ đây, chúng ta ngoài gia đình, chúng ta còn có ”Bạn học”. Quan hệ trong gia đình vợ chồng con cháu, quan hệ máu thịt tình nghĩa đó nó có cung bậc cảm xúc vui buồn riêng, nó có tôn ty trật tự chứ không cùng trang lứa. Khác với quan hệ ”Bạn học”, chúng ta cùng trang lứa có những cung bậc cảm xúc riêng. Chúng ta với nhau không thấy mình Già, bởi chuyển động cùng chiều cùng vận tốc, thì nhìn nhau như đang đứng yên, vui thực! Nên rất thích gặp nhau, rất thích chuyện trò với nhau.
       Ý nghĩ đó dẫn đến đa số đồng thuận, ngoài những lúc gặp nhau riêng rẽ, chúng ta mỗi năm phải có một lần gặp mặt chung và chọn chiều Mồng Bốn Tết. Quyết định này đã được thực hiện từ năm 1995, đều đặn cho đến nay
Đặc San Thế Hệ Thứ V, Trường Phan Bội Châu. (Tập II), ra mắt vào dịp họp mặt chiều Mồng Bốn Tết năm 2016, nhằm kỹ niệm 60 năm Bạn Bè của chúng ta. Xem như đây là tập cuối, viết về mình về bạn bè về thầy cô trường lớp, cả về chuyện đời,cốt để cho nhau đọc
         Tập II này được nhiều bạn tham gia, gởi bài và ảnh. Những bài và ảnh đã đăng cũng chỉ là những cây viết nghiệp dư, hay dở, khen chê, cũng mong xin được các bạn mỉm cười bởi cái quý là tấm lòng với nhau.

Đặc San 60 Năm Tình Nghĩa Bạn Bè (1956-2015)                                                                                                                                                                                        

Các Thầy Cô dạy Đệ Nhất Cấp NK 1956-1957 PBC Phan Thiết

 Phòng học Tam C và Thất IV NK 1956-1957


 

Sunday, October 15, 2017

60 NĂM, Trường Phan Bội Châu Phan Thiết… BS Đổ Hồng Ngọc

Thư gởi bạn xa xôi, tặng Trần Vấn Lệ
Tôi thi đậu vào Đệ thất (lớp 6) trường Phan Bội Châu Phan Thiết năm 1954, đứng hạng 7, được học bổng. Hồi đó, đậu vào Phan Bội Châu là một vinh dự lớn. Đến bây giờ, mỗi khi nhắc đến trường Phan Bội Châu Phan Thiết tôi vẫn còn nghe một chút gì đó nao nao!

Mãi đến năm 1952, Bình Thuận mới có một ngôi trường trung học công lập đầu tiên. Lúc đầu trường chỉ có vài lớp, mượn tạm một cơ sở nằm trên đường Saigon, nay là đường Trần Hưng Đạo. Năm 1954 cả trường cũng mới chỉ có mấy lớp, đệ thất, lục, ngũ. Đệ tứ thì phải ra Nha Trang hoặc vào Saigon học tiếp để thi Đíp-lôm (Trung học đệ nhất cấp). Thời đó, Trung học đệ nhất cấp là một kỳ thi cực kỳ khó, chỉ đậu chừng 10%, thi tất cả các môn học, có cả vào vấn đáp. Ai đậu Pri-me (tiểu học) đã là “oai” rồi, đậu Đip-lôm thì “nhất”!
Vào Đệ thất Phan Bội Châu được mấy tháng, chưa kịp biết hết bạn bè thầy cô thì tôi đã phải rời trường, khăn gói theo gia đình về quê Lagi, Hàm Tân sinh sống. Lúc đó Hàm Tân là tỉnh lỵ của Bình Tuy, tỉnh mới được thành lập, tách khỏi Bình Thuận, trực thuộc Nam phần. Thế là bỏ trường bỏ lớp, xa thầy xa bạn. Tôi tiếc và buồn lắm. Nhưng không cách nào khác. Mãi 3 năm sau Bình Tuy mới có lớp đệ thất đầu tiên trong một nhà thờ, tôi mới đi học lại. Hồi lớp Nhất, tôi học ở Bạch Vân, trong chùa Bà Đức sanh hội. Hết học chùa nay tới học nhà thờ là vậy! Nhờ học nhảy mà tôi đuổi gần kịp bạn bè cùng thời.
Bây giờ mỗi lần về Phan Thiết, tôi thấy mình vẫn quyến luyến nhiều hơn với ngôi trường Phan Bội Châu nhỏ bé, xinh xắn, xưa cũ đó của mình- ngôi trường nằm trên đại lộ Trần Hưng Đạo- khi chưa dời về đường Nguyễn Hoàng (Lê Hồng Phong) ngày nay. 


Năm 2002, trường Phan Bội Châu kỷ niệm 50 năm ngày thành lập. Thầy Bình hiệu trưởng có mời tôi về nói chuyện với học sinh về “Tuổi mới lớn”. Dịp này trường có một cuộc triển lãm. Một quyển sổ cũ kỹ rất to gọi là Sổ Trước Sách ghi tên học sinh của trường từ lúc thành lập đến nay được trưng bày ở phòng truyền thống. Bạn ơi, có tên tôi trong đó đàng hoàng nhé! Anh Nguyễn Đình Tư (Tư Đình, nhà thơ Từ Thế Mộng, học sinh khóa đầu tiên, 1952) thấy tôi đứng nấn ná hoài bèn tìm cách photo gởi tặng tôi mấy trang.
Trong quyển Sổ Trước Sách của trường Phan Bội Châu lúc đó, tôi đứng số thứ tự 276. (Khóa tôi có 111 người vào đệ thất, từ số thứ tự 234 đến 345). Ở mục họ tên “Đỗ hồng Ngọc” – thời đó chữ lót viết không hoa- thấy ghi “ Ở lại đệ thất”, rồi lại có dấu đánh chéo, xóa tên. Tôi đoán lúc đầu chắc trường xét cho tôi ở lại lớp thôi nhưng lỗi “nghỉ lâu không xin phép” là quá nặng nên quyết định “xóa sổ” luôn! Mục năm sinh bạn thấy ghi 1942. Đó chỉ là “Thế vì khai sanh” thôi chớ tôi tuổi thiệt 1940. Thời chiến tranh, đa số trẻ con đi học trễ. Ở mục Lý lịch cũng ngộ: ghi con ông Đỗ đơn Trì, nghề: “chết” và bà Nghê thị Như, nghề: buôn bán. Thực ra cha tôi chết trong kháng chiến chống Pháp nhưng chỉ cần ghi nghề: “chết” , là đủ, không cần “ngày tháng nào? làm gì? ở đâu? ai biết?”… như kiểu bây giờ!


Bạn để ý địa chỉ: ở chùa Hải Nam, đường Trại cưa Phan Thiết (thuộc Đức Nghĩa). Gọi là đường Trại cưa vì ở đó có rất nhiều trại cưa dọc ven sông, chuyên xẻ gỗ cho người ta đóng thuyền cá. Tôi thường lang thang coi người ta đóng những chiếc thuyền khổng lồ ở đó. Đường Trại Cưa (nay là đường Trưng Nhị) dọc hữu ngạn sông Mương Mán (khu Trường Dục Thanh bây giờ), nơi có bến đò qua Chợ Gò bên kia sông, là nơi tôi thường qua lại để đến Nhà thương chữa bệnh. Nối tiếp đường Trưng Nhị, qua khỏi cầu, là đường Trưng Trắc, nơi có nhà những bạn bè tôi như Tải (Tâm), Quế, Tốt, Tươi…
Ở mục Ngày vào học thấy ghi: Đệ thất I, ngày 14/9/54. Ngày thôi học ghi: 30/11/55.
Tôi chưa học hết đệ thất, mới mấy tháng đã bỏ trường vậy mà trường vẫn “bảo lưu” danh sách học sinh cho tôi, mãi đến 30/11/55 mới chính thức xóa sổ.
Trong Lời phê của ông hiệu trưởng thấy ghi: “Khá, nhưng cần phải gắng học thêm”. Rồi trên đó lại có dòng chữ nhỏ hơn: “Xóa sổ vì nghỉ lâu không xin phép”- chắc là của người thư ký ghi sau khi có quyết định của hội đồng.


Trong quyển Sổ Trước Sách đó, mỗi học sinh có dán cái hình. Cười chết được. Mặt nào mặt nấy ngây ngô. Dễ thương làm sao! Mỗi người một vẻ. Con trai con gái. Ngộ nghỉnh. Tức cười. Cái hình tôi chụp ở Liên Hoa lúc 12 tuổi, mặc pyjama, đi guốc xuồng. Xanh lè, ốm nhom, suy dinh dưỡng nặng, cân được 25 kg ở nhà thuốc tây Phạm Tư Tề: mắt lồi (ốc bươu), mũi bự, tai vễnh, mặt quạu…!
Dù đã bị “xóa sổ”, bị… đuổi học gần 60 năm về trước tôi vẫn luôn coi mình là một “cựu học sinh” của trường, vẫn luôn tự hào đã từng là học sinh của Phan Bội Châu Phan Thiết ngay từ thuở ban sơ…
Năm nay trường kỷ niệm 60 năm ngày thành lập, tôi chắc cũng sẽ ghé về thăm một chút để mong gặp lại cái anh chàng mắt lồi, mũi to, tai vễnh… như hôm nào kia, nơi vườn Luxambourg, có người trông thấy một cậu học trò nhỏ, tay đút túi quần, cặp sách trên vai, vừa đi vừa nhảy nhót như một chú chim sẻ…  

Je vais vous dire ce que me rappellent… le ciel agité de l’automne… les arbres qui fissonnent…
(Anatole France).
Thân mến, Đỗ Hồng Ngọc

Friday, October 13, 2017

Về Lagi, Phan Thiết - Đỗ Hồng Ngọc


Thư gởi bạn xa xôi (3)
Chờ đến hết Mùng (nghĩa là sau Mùng 10, hết Tết) mới dám về Lagi, Phan Thiết. Vậy mà khách sạn nào cũng đầy nghẹt!

IMG_2723 Ghé Lagi thăm nhà một chút đã. Căn nhà cấp 4 tuềnh toàng ngày xưa Mẹ ở vẫn còn đó dù đã quá xuống cấp. Mấy cây điều đã to. Cây mít đầy trái. Vườn chuối hột xum suê. Dừa sai. Giếng nước trong veo. Lần nào về cũng thấy thèm: “Đi về sao chẳng về đi/ Ruộng hoang vườn rậm còn chi không về…” (Đào Tiềm). Mà lần nào cũng vội vội vàng vàng. Tạt thăm chỗ này một chút chỗ kia một chút thôi. Ghé thăm gia đình anh Hai Phong (Lâm Hồng Phong), vừa mất ở tuổi 88. Anh là con cả của Cô Hai, hồi nhỏ dạy mình… Trăng mờ bên suối, Lửa rừng đêm, Gió mùa xuân tới, Xuân và tuổi trẻ, Quê hương, Ngày về , Dòng Anoma v.v… và những bài nhạc của Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý… Anh làm nghề may, hiền như Bụt. Tết anh thường may cho mình một bộ pyjama rằn bận đi chơi. Rồi ghé qua thăm  gia đình Dì Hai, vốn ở ngôi nhà cũ của mình lúc mình còn phụ Mẹ bán hàng xén ở chợ Lagi. Dì Hai cũng vừa mất trước tết, 102 tuổi rồi còn gì.

Đi qua Ngảnh Tam Tân, nơi mộ cậu Ngư (nhà văn Nguiễn Ngu Í), ghé nhà 2 Lượm, nơi xưa mình từng đến chữa bệnh cho mấy nhóc. Mấy nhóc bây giờ đã là thầy giáo, thầy thuốc…
 Phan Thiết gió bấc ào ào. Se lạnh. Sóng lớn. “Đi giữa Saigon/ Phố nhà cao ngất/ Hoa nở rực vàng/ Mà không thấy Tết/ Một sáng về quê/ Chợt nghe gió bấc/ Ơ hay xuân về/ Vỡ òa ngực biếc” (DHN), nhớ không? Gió như muốn làm nghiêng cả lầu nước (Chateau d’eau)
Ghé Hoàng Công Bình trước hết. Thầy hiệu trưởng của trường Phan Bội Châu cả chục năm trời đã về hưu, vừa làm một Giai phẩm kỷ niệm 60 năm cho lớp của Bình. Bình vào Phan Bội Châu sau mình và Trần Vấn Lệ, Phan Đổng Lý, Huỳnh Tấn Thời, Phan Bá Thụy Dương… hai năm. Bình kêu về Phan Thiết phải ăn bánh tráng, măng kho, rau sống, củ kiệu… sau đó tráng miệng với cốm hộc và bánh rế mới đúng điệu. Bình nói dù ở Saigon anh cũng có đủ những món đó, nhưng đâu có nấu được với nước Phan Thiết phải không? Nước Phan Thiết, đầy calci nên răng Phan Thiết người nào cũng tốt nhớ chớ? Cô Dược sĩ Tường Vân hồi đó hơn 90 tuổi mà vẫn còn siết mía rào rào!
Mình cùng với thầy Bình và thầy Hoàng Triều đến thăm Ung Văn Ánh. Ánh vào đệ thất một lượt với bọn mình thuở đó (1954), học rất giỏi. Gặp nhau nhìn không ra. Hơn 60 năm rồi còn gì, sao nhớ nổi! Lâu lắm, mãi lần này mình mới có dịp gặp các bạn cũ.

IMG_pt 3 Bach van
IMG_pt 4 bv
Rồi về thăm lại trường Bạch Vân xưa, nằm trong đình Đức Thắng, nơi mình học lớp Nhất (lớp 5). Trường của cô Hồ thị Tiểu Sính (con cụ Hồ Tá Bang). Học thì với thầy Nguyễn Văn Lợi, thầy Nguyễn Văn Cung… Bùi ngùi nhìn lại trường xưa, lớp cũ với những chiếc cột to tròn ôm không xuể. Bạn bè còn mấy.

IMG_Pt 5 bv
Trên đường về Saigon, ghé qua Cam Bình. Bãi rộng, cát trắng mênh mông. Một chút Tết còn vươn lại. Rồi Hồ Cốc, giờ có điểm mới, thiên hạ chụp hình cưới đẹp ghê.

IMG_pt 8 ho coc
IMG_pt 9 hc
Về nhé. Giang hồ vặt một chuyến nhé.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.

http://www.dohongngoc.com/web/huom-huom/gia-oi-chao-ban/ve-lagi-phan-thiet/

Thursday, October 12, 2017

Để nhớ đến những người thầy nay không còn trẻ nữa.


Thơ cuối năm tặng ông giáo Ân bên Hoa Kỳ.

Buổi sáng nhâm nhi ly cà phê đen với những người bạn cũ.
Buổi chiều lai rai vài lon bia 333 bên hông chùa Ông.
Lương hưu nhà giáo thì không nhiều.
Nhưng nếu tiện tặn thì cũng đủ qua ngày.

Phương tiện di chuyển là một chiếc xe đạp Trung Quốc cũ.
Mỗi ngày đạp xe qua lại cầu Dục Thanh đôi ba lần.
Chở hết nổi buồn đổ xuống sông Cà Ty.

Thắm thoát tuổi đời đã hơn thất thập, cổ lai hy.
Nhìn lại đời mình, thấy nhẹ hơn chiếc lá cuối đông.
Chỉ mong một lần, được gặp lại cố nhân.
Uống ly cà phê đen, nhắc lại chuyện ngày xưa, khi tóc còn xanh.

Giáo Phẩm.

Saturday, October 7, 2017

Một Nơi Gọi Là Miền Của Hi Vọng - Cát Biển

Mảnh đất Hoa Kỳ có phải là một miền đất hứa hẹn cho những người tỵ nạn hay không? Câu hỏi từng đến với tôi năm 1975 vẫn còn vương vấn trong tôi hơn 30 năm qua.
Đất nước Hoa Kỳ đã cho tôi và những người tỵ nạn Việt Nam niềm sung sướng của một mảnh đất tạm dung, tức là một quê hương thứ hai, để khởi đầu từ những mất mát. Có khác chăng là ngày ấy tôi đang mang nỗi buồn trầm kha của 1 người da vàng nhược tiểu. Nỗi buồn bị mất nước còn in hằn trong tâm khảm tôi hình ảnh những xác người tìm tự do chết tức tưởi trên biển đông, thêm vào tâm trạng đắng cay cô độc của 1 con người vừa bị tước hết mọi tình bạn, thân quyến và các liên hệ, các ý nghĩa của cuộc đời, khiến những bước chân đơn điệu của tôi dọc trên con phố chính với nhiều cửa hàng ấy vang lên những âm thanh khô khan lạc lõng như gót chân của kẽ lữ hành trên sa mạc.
Người lữ hành đó đang mò mẫm đi tìm một điểm đến.
Sau hơn 30 năm câu trả lời tôi tìm được cho riêng mình cũng lại là một trong những yếu tố của hành trình đã giúp nước Mỹ tiến vượt lên với sắc thái của một quốc gia đa chủng.
Ngày xưa trước khi vào trường học môn toán Calculus khó ai có thể giải thích cho tôi hiểu rõ môn ấy bao gồm những phạm trù nào. Vì mọi ý niệm đều có vẽ lạ lùng và mới mẻ cả. Nhưng khi học xong rồi mình mới hiểu nhiều hơn phần nào cái hay và cái đẹp của các môn vi tích phân được dùng làm căn bản lượng định các hệ thống giá trị của vật chất. Điều mà tôi học được từ miền đất mới này là gương phấn đấu. Sau này tôi mới hiểu thêm, những di dân khác như Ý, Anh, Ái Nhỉ Lan, Trung Hoa v.v... khi mới đến Hoa Kỳ cũng đều mang 1 tâm trạng tương tự...
Miền đất mới này không bao giờ dâng mâm ngọc chờ sẵn hay hứa hẹn 1 tương lai vàng son nào cho ai cả. Nhưng nước Mỹ sẽ dành sẵn cơ hội cho những người biết vươn lên từ nghịch cảnh, biết phấn đấu để đạt đến thành công. Trong bóng đêm đen tối của quá khứ đau buồn, người tị nạn vẫn luôn tìm thấy lóe lên những tia sáng hi vọng là mầm mống đầy hứa hẹn của một tương lai cho những con người biết nhẫn nại và nuôi dưỡng nghị lực. Chính nghị lực là yếu tố then chốt nhất để đi đến thành công, và cũng có nghĩa là năng lực dẫn ta đến bến bờ hạnh phúc.
Chợt hiện về là hình ảnh của một thanh niên tị nạn trẻ với nhân dáng gầy mái tóc phủ tai, với đôi mắt đăm chiêu, một nụ cười khô khan không trọn vẹn, và một tâm sự ngổn ngang những nỗi niềm, bước những bước chân xa lạ bỡ ngỡ trên con phố Main Street của thành phố Wilkes-Barre, PA với tâm trạng buồn bã. Tuy nhiên, miền đất mới này như trải rộng một lời mời gọi rất chân thành và khoan dung. Nó thúc giục trong tôi một nghị lực phấn đấu để vươn lên mà tôi không tài nào cưỡng lại được. Tôi như lúc nào cũng nghe vang vọng bên tai một lời khuyên nhủ "Cố lên nhé... cố lên nhé... còn bao ước mơ cần phải được thành tựu... còn bao gương sáng mình phải noi theo... còn bao nhục nhã của dân tộc cần phải gột rửa... còn bao giọt nước mắt của dân Việt cần phải đền đáp..."
Tôi cố gìn giữ đóm ánh sáng của một ngọn nến bập bùng, dầu đôi khi có bị nghiêng ngả tròng trành trước những gió mưa giông bão của cuộc đời.
Tôi nhớ lời của vị thầy dạy học tôi thời niên thiếu, người đã mang tôi ra khỏi bóng tối của khờ dại và bước vào vùng ánh sáng của lý tưởng với lời khuyên còn vang vọng từ thuở bình minh của tâm hồn: "Các con hãy sống chân thành, sống đầy nghị lực, hãy đi tìm ý nghĩa của cuộc đời... và rồi hạnh phúc sẽ đến với con, với một niềm mãn nguyện"
Lời khuyên đó không vẽ giùm cho tôi một khái niệm rõ rệt gì trong ý tưởng phôi thai mới lớn của tôi về một phần thưởng quý giá nào đó của cuộc sống đang chờ sẵn. Lời khuyên đó chỉ như một ngón tay vạch cho tôi một hướng đi và nói, con hãy cứ đi tìm. Tuy nhiên, nó đánh thức cả cuộc đời tôi về một chuyến đi tìm. Thật có vẽ ngô nghê khi không thể nào tả được về chính điều mình đang tìm kiếm. Nhưng lời nhắc nhở về "điều gì đó" đang chờ tôi khám phá, chính là tác dụng của lời khuyên của vị thầy từ buổi tâm thức còn non nớt trong tôi.
Chiến tranh dài đăng đẳng bao năm từ những thế hệ trước khi tôi sinh ra đời, đã khiến niềm hi vọng của người Việt chỉ còn thu hẹp lại ở một mục đích nhỏ bé tầm thường là đạt được "sự sống còn" hoặc "làm thế nào để mang đủ miếng ăn về cho gia đình mình". Nhưng hình như xứ sở mới này còn dành sẵn một viễn tượng ấm no hơn, bớt thống khổ hơn, và ít bất công hơn cho mọi công dân dù mới hay cũ, dầu giàu sang hay nghèo tận.
Những khổ đau ban đầu khi được nung nấu bằng niềm căm hờn "phải làm cái gì đó với đời" cuối cùng chỉ còn là những cái đau xót rất nhỏ bé quá tầm thường như bị kiến cắn mà thôi, so với những bất hạnh của những đồng bào tôi, đã phải chết lặng lẽ đầy tức tưởi giữa biển Đông làm mồi cho cá mập, những người con gái mới lớn bị bọn hải tặc hãm hiếp quăng thây, hay những anh hùng vị quốc vong thân đem xác thân bảo vệ từng tấc đất cuối cùng của quê hương trước khi bị Cộng quân phương Bắc hành quyết...trong những trang sử đau thương bi hùng của dân tộc Việt.
Một hình ảnh tuyệt vời nhất của nước Mỹ đã làm tôi nhớ mãi là kỷ niệm về cô giáo dạy Anh ngữ Janet Jones.
Sau khi ra khỏi trại tỵ nạn Indiantown Gap, tiểu bang Pennsylvania, hình ảnh một cô gái mới hơn 20 tuổi đời vui vẻ, lịch sự, tận tâm với dáng thanh lịch, mũi cao, môi mọng xinh, mắt xanh lơ và bờ tóc óng vàng, lúc nào cũng ăn bận trẻ trung tươi mát của cô Janet Jones dạy tiếng Anh cho các người tỵ nạn Việt Nam chúng tôi qua chương trình cứu trợ, là một hình ảnh không thể nào quên.
Năm ấy tôi xấp xỉ tuổi cô, chỉ hơn cô vài tuổi. Khi các cô học trò khác trong lớp tò mò hỏi về cô, cô kể về gia đình sung túc của cô một cách bình thản không một ý khoa trương gì cả. Địa vị của gia đình cô làm cho tôi và các học viên khác có phần e dè trọng nể.
Janet kể cho chúng tôi trong lớp biết, cha cô là Giám Đốc một công ty may mặc nên ông phải xuất ngoại thường xuyên. Gia đình cô ngụ tại thành phố Mountain Top cách Wilkes-Barre khoảng 30 phút lái xe trên 1 ngọn đồi, là khu nhà biệt thự của giới thượng lưu. Cô theo học nội trú tại 1 đại học thuộc thành phố Lewisburg. Mùa hè năm đó cô về thăm gia đình, nhân tiện nhận dạy thêm môn Anh ngữ để tìm hiểu thêm về người tị nạn Việt Nam mới sang định cư. Trong cung cách dạy chúng tôi tại lớp, cô Janet luôn luôn nở một nụ cười ân cần và kiên nhẫn cho dù phải lập đi lập lại cách phát âm, vì chúng tôi luôn cứ đánh lưỡi sai bét, nhất là khi gặp những chữ cực kỳ khó khăn đến nỗi làm chính mình phải ngượng nghịu trong lần đầu chúng tôi phải tập đọc như: girl, oil, dirty, beach v.v...
Phong cách của cô giáo trẻ Janet chính là một hình ảnh bao dung, nhưng rất công bằng. Nếu chúng tôi có điều gì chỉ trích gần xa đất nước Hoa Kỳ, do lòng buồn thảm và một tâm lý bị người đồng minh bỏ rơi, Janet luôn luôn dịu dàng phân tích vấn đề và rồi đặt câu hỏi: "Nếu địa vị các bạn, thì các bạn sẽ nghỉ thế nào, các bạn sẽ làm sao..." và rồi chúng tôi tự tìm thấy câu trả lời với sự thông cảm hơn từ quan điểm của quốc gia Mỹ. Nói chung, cô ấy không bao giờ dùng ác cảm hoặc thành kiến để dành lẽ phải về phần cô ấy. Bao dung, nhưng rất công bằng. Và nụ cười vị tha, cùng hình ảnh trong sáng nơi cô đã mang về giữa những tuyệt vọng đau buồn của tâm hồn người tị nạn trong tôi một hình ảnh đẹp của nước Hoa Kỳ.
Thành phố Wilkes-Barre như một thiên đường hạ giới với các đường phố, xa lộ, siêu thị, cảnh sát...rất bình lặng, khang trang và hiền hòa, làm tôi quên hẳn tiếng đạn bom mà tôi từng đã quen tai.
Từ những buổi học Anh ngữ trong chương trình thiện nguyện đó, ước vọng được trở lại đi học Đại Học được manh nha và trở thành ngọn lửa khát vọng to lớn nhất thiêu đốt trong tôi kể cả những khi tôi làm công việc nặng nhọc trong hãng sản xuất đồ chơi nhựa với giá lương $2.15/giờ mà tay tôi cứ bị chai phồng vì tiếp xúc chất nhựa mới ra khuôn còn rất nóng, hoặc khi tôi được sự tiến cử của Mục Sư Phillips dời qua thành phố Allentown làm việc lam lũ trong 1 hãng dệt với số lương khá cao lúc ấy, $3.50/giờ, đủ để có một nếp sống ổn định, trả tiền mướn apartment, ăn uống, và còn cất dư lại ít tiền hằng tháng.
Do lời khuyên của một người bạn, tôi tập trung mọi can đảm đến gặp vị Dean of Admission của trường Đại Học Wilkes. Vị Dean này mới ngoài 40 tuổi, rất cởi mở và tận tâm khi gặp tôi. Ông kể rằng tất cả sinh viên Việt du học tại trường này đều rất giỏi, được bảng Danh Dự (Dean's List) hằng năm cả! Tôi rất ngại ngùng vì ông ta quên rằng tôi là người Việt tị nạn, chứ không thể nào so bì với các học sinh ưu hạng kia được. Nhưng nhờ vào sự tin tưởng ấy của ông mà sau khi tính hết tất cả các khoản học bổng ông có thể xin được cho tôi, cuối cùng ông cho biết khoản học phí rất cao của tôi có cơ hội sẽ được thanh thỏa đầy đủ!
Sau khi rời trường hôm đó, tôi hân hoan bước những bước thật nhanh về nhà lòng tràn trề một niềm hi vọng, rồi hằng ngày cứ mong đợi lá thư nhận học của trường... và ba tuần sau, tôi sung sướng và cảm động biết bao khi nhận được 1 lá thư có in dấu hiệu trường Wilkes lịch sự ngoài phong bì chuyển đến phố Allentown nơi tôi đang làm thơ dệt cực nhọc ca khuya (graveyard shift). Lá thư gọn ghẽ và lịch sự ấy cho biết đơn xin nhập học của tôi đã được Trường chấp thuận.
Tôi đọc lá thư xong, nằm lăn ra giường với những hân hoan mừng tủi và lịm người đi trong giấc mơ... Sáng hôm sau, khi tôi trình bày quyết định sẽ bỏ công việc tại hãng dệt với số lương lúc ấy đã được tăng lên thành $3.75/giờ (khá cao thời 1975, so với các việc làm khác chỉ khoảng chừng $2.75/giờ), thì Mục Sư Phillips có vẽ không đồng ý. Ông ấy cứ khuyên tôi mấy lần "nên suy nghĩ thật kỹ lại... vì chưa chắc học xong là có thể có 1 công việc tốt.. vì việc làm này không dễ kiếm..." Nhưng khát vọng được đi học lại là một cái gì chiếm ngự trọn vẹn tâm hồn tôi mà không một mãnh lực nào có thể cản được. Tôi nói: "Tiền bạc và công việc không còn là những gì quan trọng nhất đối với tôi nữa, chỉ còn sự ham muốn được đi học, và tôi sẽ sẵn sàng làm bất cứ việc làm gì có thể để tự sinh nhai qua 4 năm theo học Đại Học..." Đó là lần đầu tiên tôi có quyết định ngược lại với ý muốn của người ân nhân khả kính, người mà lúc nào cũng biểu lộ sự quan tâm cho đời sống của tôi.
Buổi tối hôm ấy tôi nằm miệt mài trên giường, cứ đọc đi đọc lại lá thư rất ngắn ấy của trường Đại Học Wilkes... tôi mong thời giờ trôi nhanh cho đến tháng 9 để tôi về nhập học... rồi bao nhiêu hình ảnh của các người thân vẫn còn ở lại Việt Nam, bao nhiêu đồng đội và bạn bè giờ đã lạc phương nào biệt vô âm tín, tâm trạng buồn bã tuyệt vọng ngày rời trại Orote Point ở Guam cùng làn sóng người Việt tị nạn chia ra đi về những phương trời vô định...
Nhớ làm sau những nét lo âu phân vân rối bời của những anh em lưỡng lự phút giây đi ở sống còn vì người thân còn kẹt lại ở quê nhà...nước mắt tôi nhòa ra mờ hết mọi cảnh tượng chung quanh... và tôi khóc tức tưởi đến ướt đẫm cả chiếc gối... Bao nhiêu chất chứa giờ đã thành 1 dòng sông thoát đi được phần nào nỗi ưu phiền... tôi không ngờ chính mình mình sung sướng vì đã khóc được! Như vậy tôi không quá khô cằn, tôi vẫn còn tình người, và tôi còn khóc được. Sau này tôi chợt cảm thông làm sao cho những giọt lệ khô cằn thành sẹo của những người bị giam cầm trong các trại cải tạo, nơi mà chính loài người cũng bị cấm không được phép khóc trong đau khổ để thấy mình vẫn còn có cảm xúc của một con người.
Thế rồi ngày tựu trường cũng đến. Bao nhiêu mong đợi, bao nhiêu hi vọng, bao nhiêu ước mơ cùng thành tựu trong một ngày. Tôi bỏ hết mọi thứ để dọn về lại Wilkes-Barre. Ngày nhập học sinh viên Mỹ nào cũng có gia đình thân nhân đi tham quan từng phòng ốc từng chỗ ăn chỗ ngủ. Ai ai cũng hân hoan phấn khởi trước những bài diễn văn chào đón nồng nàn đầy kỳ vọng cho một thế hệ sinh viên mới đang chuẩn bị dấn thân với sách đèn. Tôi chỉ riêng mình, cô độc. Tự phấn đấu bằng bản thân mình.
Mỗi lục cá nguyệt thông thường các sinh viên ghi danh với 12 credits. Các học sinh chịu khó hơn thì ghi danh khoảng 14 đến 18 credits. Trên 18 credits, sinh viên cần phải xin phép vị Khoa Trưởng ký giầy chấp thuận thì mới được ghi danh.
Khóa học năm đó tôi ghi danh 14 credits. Tôi may mắn đem theo được một quyển tự điển Việt-Anh loại bỏ túi lúc rời Việt Nam. Mỗi tối tôi sử dụng nó đến nhàu nát cả từng trang giấy ngả màu vàng. Lục cá nguyệt sau đó các bạn cùng lớp Kỹ Sư Điện có phần ngạc nhiên khi thấy tôi ghi danh 18 credits.
Đến năm thứ Ba, theo đà bận rộn không ngừng nghỉ, tôi ghi danh 24 credits, vừa dạy kèm Toán bên phân khoa Toán, vừa dạy Toán trong chương trình Upward Bound, vừa tình nguyện hiến giờ kèm thêm cho các học sinh trung học thiếu căn bản tại trung tâm YMCA khiến vị Khoa Trưởng rất ngạc nhiên và lo ngại vì sợ tôi không kham nổi một lịch trình quá nặng. Vậy mà khi lên năm thứ Tư tôi vẫn còn nhận thêm 1 job nữa là làm Teaching Assistant (phụ khảo) trong phòng thí nghiệm phân khoa Điện.
Khi chấm bài các sinh viên lớp dưới tôi nhận xét 1 điều là có một số sinh viên Mỹ rất thông minh và phân tích các kết quả trong phòng thí nghiệm thật mạch lạc và tỉ mỉ. Những sinh viên này trình bày các phúc trình của họ rất gọn gàng với luận cứ bén nhậy và đầy tính thuyết phục. Các sinh viên Việt Nam lớp dưới đa số rất giỏi Toán và học rất xuất sắc vào các năm đầu. Lên năm thứ Tư, các bài vở có phần trừu tượng hơn, đòi hỏi nhiều phân tích, suy diễn và quy nạp. Đấy là những lớp mà chỉ các sinh viên dĩnh ngộ mới có cơ hội chiếu sáng tài năng của họ với các bạn cùng lớp.
Cuối năm đó tôi được 14 hãng mời đi interview. Lịch trình máy bay của tôi đi interview khá bận rộn. May mắn là mọi chi phí ăn ở vé máy bay đều được các hãng đài thọ cả, vì bản thân tôi vẫn không có đến một trăm bạc.
Năm 1980 ngành dầu hỏa có sức mạnh ảnh hưởng kinh tế nhất vì giá dầu bắt đầu tăng cao. Sau những chuyến đi thăm, cuối cùng tôi nhận lời làm việc cho hãng Exxon Production Research tại Houston TX vì họ trả lương hậu hĩnh nhất so với các lương mời của các hãng khác. Và tiếng vọng bên tai vẫn không ngừng nhắc nhở "...hãy đi tìm... hãy cố gắng tìm... và mãn nguyện sẽ đến với con..."
Từ đó tôi theo dòng đời bận rộn miệt mài. Từ khi tốt nghiệp kỹ sư rồi đi nhận việc làm tại Houston TX, rồi di chuyển sang Nam California làm việc với McDonnell Douglas, Boeing, đến nay đã hơn 30 năm, tôi thất lạc không còn tìm được chi tiết về Mục Sư Phillips nữa. Nhưng tôi còn 1 kỷ niệm đáng nhớ nhất về ông. Đó là khi ông hướng dẫn tôi và 3 người Việt tị nạn khác đi thăm New York City với khu Rockefeller Center, Empire State Building, và cho tôi một ánh nhìn đầy ngưỡng mộ trìu mến về tượng Nữ Thần Tự Do hùng vĩ... chuyến đi đó đã ăn sâu vào tâm khảm tôi những giá trị về ý nghĩa của hai chữ Tự Do, bằng những hình ảnh to tát, cao cả và thâm thúy nhất mà chỉ có thể cảm nhận được từ con tim của 1 người tị nạn.
Vị Mục Sư ấy đã giúp tôi có được một đời sống ổn định những ngày bơ vơ ban đầu. Cũng vì lòng khao khát và nghị lực phấn đấu, tôi muốn chứng tỏ một người Việt tị nạn tầm thường như tôi còn có thể làm được 1 điều gì đó không tầm thường cho cuộc đời còn lại của mình, nên tôi bất chấp những gì đang có để dấn thân vào tương lai với ít nhiều liều lĩnh.
Những lời nhắn nhủ của vị thầy vẫn về nhắc nhở trong tôi. Điều gì ở cuộc đời sẽ làm tôi mãn nguyện? Tôi đã từng thành lập một Công ty Computer năm 1987 và đã từng có lần đánh giá thành công qua những mức độ vật chất như nét hào nhoáng của chiếc xe mình lái, tầm lớn của cao ốc mình làm chủ, hay bán kính và độ dầy những viên kim cương... tiếc thay những giá trị vật chất đó đến rồi đi... Còn lại niềm mãn nguyện chăng có lẽ là ý niệm về một sự phấn đầu. Rằng mình đón nhận quả chanh từ số phận và đã vắt chất nước chua ấy tạo nên một ly đá chanh. Rằng mình đã vượt qua được một số thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Rằng mình chấp nhận cuộc đời bất chấp sự kém toàn thiện của nó, để luôn giữ vững niềm tin mà đi tới. Vì ngày mai hiển nhiên mặt trời sẽ vẫn còn ló dạng ở Phương Đông.
Có một câu nói rằng: "How much you get out of life depends on how much you put into it", tạm dịch là "Mức độ bạn nhận được bao nhiêu từ cuộc đời này lệ thuộc vào mức đóng góp của bạn vào nó"... Nước Mỹ không thể xem là hoàn hảo, nhưng nó cho người tị nạn cơ hội để họ có thể phấn đấu và cuối cùng tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Tôi bước đi một cách bình thản giữa những ồn ào và náo nhiệt. Tôi học hỏi sự bao dung và công bằng từ cô Janet. Tôi trân quý lòng quan tâm mà Mục Sư Phillips đã dành cho một người tỵ nạn như tôi. Nhưng có lẽ chuyến viếng thăm New York là một kỳ tích đã để lại một ấn tượng sâu đậm nhất cho cả cuộc đời tôi. Nó cho phép tôi bước lại trên những dấu chân của những giống dân tị nạn khác đã từng đến nước Mỹ trước chúng ta. Đó là ý nghĩa về một lý tưởng Tự Do. Ý niệm đó từng làm tôi khóc sau biến cố Sept 11, 2001.
Cũng vì những giá trị khai phóng đó mà tôi luôn theo dõi các phi thuyền Con Thoi của Mỹ khi nó bay ra ngoài khí quyển làm những công tác đặc biệt rồi lại trở về an toàn trên quả đất. Đôi khi những phi thuyền đó và các Phi Hành Đoàn phải trả giá bằng cái chết bi hùng của chính họ. Nhưng nước Mỹ, một quốc gia luôn tự hào về tính chất đa văn hóa, đa chủng tộc, luôn luôn tự chọn cho mình những sứ mang không tầm thường. Và tôi tự hỏi, hay là nước Mỹ cũng đang thực hành lời khuyên của vị thầy xưa của tôi? Có phải chăng nước Mỹ luôn đi tìm điều gì đó để làm cuộc đời này có ý nghĩa?
Ngày mai khi vầng thái dương bắt đầu ló dạng, các bạn hãy làm một điều gì đó cho cuộc đời. Hãy biến mỗi ngày mới của bạn thành một ngày thật đầy ý nghĩa.

CÁT BIỂN